Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Xuất khẩu dầu thô của Mỹ cao kỷ lục trong tháng 6 năm 2019

 

Xuất khẩu dầu thô cao nhất của Mỹ sang Trung Quốc trong 11 tháng đã nâng tổng xuất khẩu dầu thô của nước này lên mức cao kỷ lục 11,9 triệu tấn trong tháng 6 năm 2019.

Cũng đóng góp vào kỷ lục tháng 6 là Hàn Quốc, khi xuất khẩu cho người mua chính ở Viễn Đông đạt khối lượng cao mọi thời đại là 2,3 triệu tấn.

1,2 triệu tấn đã được chuyển đến Trung Quốc trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 6 đến ngày 30 tháng 6, tăng từ 1 triệu tấn của tháng 5 và các nước khác ngoài việc không xuất khẩu chút nào trong các tháng từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2018 và một lần nữa vào tháng 1 năm 2019.

Từ một người mua dầu thô xuyên suốt và quan trọng của Mỹ cho đến khi cuộc chiến thương mại làm thay đổi tất cả, Trung Quốc đã trở lại trên mức 1 triệu tấn vào tháng 6 năm 2019.

Khi Trung Quốc ngừng mua vào tháng 8 năm 2018, Hàn Quốc đã trở thành điểm đến số 1 của dầu thô Mỹ, với trung bình 1,5 triệu tấn mỗi tháng trong năm 2019 và lập kỷ lục 2,3 triệu tấn vào tháng 6 năm 2019.

Từ góc độ vận chuyển, xuất khẩu đường dài sang châu Á là tuyệt vời. Khi Trung Quốc rút lui vào năm ngoái, Ấn Độ, Đài Loan, Nhật Bản và Singapore đã bước lên cùng với Hàn Quốc để nhập khẩu dầu của Mỹ.

Hàn Quốc đã trở thành điểm đến chính khi Trung Quốc rút lui

Nhập 2,3 triệu tấn dầu thô từ Mỹ vào tháng 6, có nghĩa là Hàn Quốc là điểm đến chính, khi mua 19% tổng lượng dầu thô xuất khẩu của Mỹ trong tháng đó.

Mặc dù đó không phải là dầu thô có cùng đặc điểm, nhưng sự tăng trưởng trong nhập khẩu của Hàn Quốc từ Mỹ đến vào thời điểm mà nước này đang cắt giảm đáng kể nhập khẩu từ Iran. Theo số liệu thống kê chính thức, nhập khẩu của Hàn Quốc từ Iran đã giảm từ 1,2 triệu tấn trong tháng 3 xuống 0 trong tháng 5 và tháng 6.

Điều tương tự cũng xảy ra với Ấn Độ, nước đã nhập khẩu trung bình 1,3 triệu tấn từ tháng 3 đến tháng 6 từ Mỹ, trong khi cắt giảm nhập khẩu của Iran từ 1,4 triệu tấn trong tháng 3 và tháng 4 xuống 0 trong tháng 6. Ấn Độ từng là nước mua dầu thô lớn thứ hai của Iran, chỉ sau Trung Quốc.

“Các tàu chở dầu thô thô được hưởng lợi từ nhu cầu vận chuyển đường xa cao hơn, khi Ấn Độ quay sang Mỹ thay vì Iran để đáp ứng nhu cầu về dầu thô của họ.

Sự bất ổn địa chính trị thường là lý do chính đằng sau những thay đổi trong mô hình thương mại của thị trường tàu chở dầu.

Mặc dù nhu cầu vận chuyển dầu đường xa ngày càng tăng, nhưng thu nhập từ tàu chở dầu thô nói chung vẫn thua lỗ cho đến năm 2019”, Peter Sand cho biết.

Không có sự thay đổi quy mô lớn nào khác xuất hiện

Trong khi nhập khẩu đường biển Bắc và Trung Mỹ ổn định ở mức 1 triệu tấn mỗi tháng trong năm 2018, thì năm 2019 đã chứng kiến ​​sự gia tăng dần dần trong nhập khẩu dầu thô từ Mỹ, đến các nước trong các khu vực đó. Đỉnh điểm vào tháng 4 năm 2019 ở mức 2,4 triệu tấn trong khi giảm xuống còn 1,1 triệu vào tháng 6, trung bình hàng tháng trong sáu tháng đầu năm 2019 đã đạt 1,6 triệu tấn. Tăng 65% so với sáu tháng đầu năm của năm 2018.

Với việc xuất khẩu dầu thô của Mỹ tăng với tốc độ rất cao, người ta có thể dễ dàng rút ra kết luận sai lầm liên quan đến dòng chảy thương mại. Nhưng trong khi khối lượng xuất khẩu dầu thô của Mỹ sang các khu vực khác nhau đã đạt được tốc độ tăng trưởng hai con số, thì mô hình giao dịch vẫn như vậy.

Châu Âu đã tăng nhập khẩu 52% trong nửa đầu năm ngoái so với cùng kỳ năm 2018, nhưng đây đơn giản chỉ là một trường hợp tăng trưởng theo tỷ lệ về khối lượng so với tổng xuất khẩu dầu thô tăng từ Mỹ. Thị phần của Châu Âu chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ so với 33% năm ngoái.

Điều tương tự cũng được chứng kiến ​​trong trường hợp của Bắc và Trung Mỹ, về thị phần thì tương tự như năm ngoái, nhưng về khối lượng thì tăng 9,6 triệu tấn với mức tăng trưởng lũy kế là 64%. Trong trường hợp này, một quốc gia duy nhất có thể dễ dàng được chọn ra và đó là Canada, chiếm 84% lượng nhập khẩu năm 2019 vào Bắc và Trung Mỹ.

Nguồn tin: xangdau.net/ Theo Peter Sand (Chuyên viên phân tích vận tải biển, BIMCO)

ĐỌC THÊM