Những hoài nghi về tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ sẽ vẫn tồn tại sau năm 2024, và nỗi lo về sự sụt giảm giá sẽ luôn song hành cùng những hoài nghi đó. Theo một số dự đoán gần đây về tình hình thị trường dầu mỏ năm 2025, nhu cầu sẽ tăng, Trung Quốc dẫn dắt thị trường và OPEC vẫn có khả năng sẽ nới lỏng các biện pháp cắt giảm sản lượng.
Ngay từ tháng 11, một số nhà phân tích đã cảnh báo rằng OPEC có thể quyết định rằng họ đã quá chán việc mất thị phần và bắt đầu đưa dầu trở lại bất kể giá cả thế nào. Điều này có thể khiến giá giảm xuống còn 40 đô la một thùng, Tom Kloza từ OPIS nói với CNBC.
"Bạn có thể giảm xuống còn 30 đô la hoặc 40 đô la một thùng nếu OPEC không có bất kỳ thỏa thuận thực sự nào để hạn chế sản xuất. Họ đã chứng kiến thị phần của mình thực sự giảm dần qua từng năm", Kloza cho biết. Những nhận xét này tương tự như dự báo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, cơ quan này cho biết vào tháng 10 rằng OPEC có thể phải đối mặt với tình trạng thị phần giảm từ 34% xuống còn hơn 31% một chút vào năm 2028, bị các nhà sản xuất như Hoa Kỳ, Canada, Brazil và Guyana lấy mất.
Có lẽ sự lựa chọn giữa việc làm tràn ngập thị trường bằng dầu thô để nhấn chìm các đối thủ, điều mà OPEC đã từng làm trước đây, và duy trì giới hạn sản lượng sẽ là điều đánh dấu năm 2025 cho liên minh sản xuất này. Và có lẽ nỗi sợ mà các nhà phân tích cho rằng các nhà sản xuất OPEC nên cảm thấy về các quốc gia dầu mỏ lớn không thuộc OPEC có phần hơi quá đáng.
Theo các nhà phân tích đó, Hoa Kỳ là mối đe dọa lớn nhất đối với thị phần của OPEC. Là nhà sản xuất dầu khí lớn nhất thế giới, quốc gia này đã tăng đáng kể sản lượng của cả hai loại hydrocarbon chỉ trong vòng hai thập kỷ. Một số người trong ngành cảnh báo rằng điều này không thể tiếp tục mãi mãi với cùng một tốc độ như vậy vì tài nguyên là hữu hạn và nguồn dầu khí rẻ nhất đã cạn kiệt hoặc sắp cạn kiệt. Điều này có nghĩa là chi phí sản xuất sẽ cao hơn trong tương lai, ngay cả với mức tăng hiệu quả nổi tiếng đã khiến nhóm phân tích ngạc nhiên vào năm ngoái.
Tuy nhiên, có một áp lực trực tiếp hơn đối với các nhà sản xuất của Mỹ, đó là sẽ hạn chế tăng trưởng sản lượng của chính họ vào năm tới, bất chấp các dự báo—và bất chấp một tổng thống rất ủng hộ dầu mỏ sắp bước vào Nhà Trắng vào tháng 1. Áp lực đó chỉ đơn giản là giá dầu. Một giám đốc điều hành của Exxon đã nêu rõ điều này gần đây trong bối cảnh có nhiều dự đoán rằng Mỹ sẽ trở thành một nhà sản xuất dầu khí lớn hơn nữa nhờ Trump vì mọi người sẽ bắt đầu khoan theo ý muốn.
"Tôi nghĩ rằng một sự thay đổi đáng kể là không thể vì phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả mọi người, chủ yếu tập trung vào hiệu quả kinh tế của những gì họ đang làm", Liam Mallon, chủ tịch thượng nguồn tại công ty này, cho biết vào tháng 11. "Nếu những quy định về khoan dầu trên đất liên bang được thay đổi đáng kể, bạn sẽ có thể khoan nhiều hơn, với giả định rằng bạn có chất lượng và đạt được ngưỡng kinh tế của mình", Mallon cũng cho biết. “Nhưng tôi không nghĩ chúng ta sẽ thấy bất kỳ ai ở chế độ ‘khoan, khoan, khoan’. Tôi thực sự không nghĩ vậy.”
Những người khác đã cảnh báo về việc các công ty khoan hết diện tích Tier 1, khiến Hiệp hội Kỹ sư Dầu khí lưu ý rằng theo dữ liệu thực nghiệm được Deloitte thu thập, không có nhiều sự khác biệt giữa diện tích Tier 1 và Tier 2 về mặt chất lượng, ít nhất là ở các lưu vực Permian và Eagle Ford. Tuy nhiên, bất kể ở cấp độ nào, giá hòa vốn đều quan trọng và giá hòa vốn ở mảng đá phiến cao hơn so với nhiều lưu vực thông thường. Ngoài ra còn có vấn đề về nhu cầu dầu và khi các tổ chức dự báo nói về nhu cầu dầu, mọi sự chú ý đều đổ dồn vào Trung Quốc.
“Chúng tôi kỳ vọng rằng nhu cầu dầu của Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng vào năm 2025, nhưng hầu hết sự tăng trưởng sẽ đến từ nguyên liệu hóa dầu. Nhu cầu về nhiên liệu vận tải có khả năng sẽ giảm”, Wood Mackenzie đã viết trong một loạt dự đoán gần đây cho năm tới. Công ty tư vấn này cũng cho biết họ kỳ vọng nhu cầu dầu diesel toàn cầu sẽ tăng vào năm tới nhưng chỉ ở mức không đáng kể, do ám ảnh mới của Trung Quốc đối với xe tải LNG, điều này sẽ làm suy yếu sự tăng trưởng của quốc gia tiêu thụ khổng lồ này. Wood Mac cũng dự đoán nhu cầu xăng của Trung Quốc sẽ giảm do xe điện và nhu cầu nhiên liệu máy bay tăng trưởng sẽ không thể bù đắp được sự sụt giảm của các loại nhiên liệu khác.
Nói về nhu cầu, các dự báo khác nhau nhưng ở mức vừa phải. IEA dự kiến nhu cầu tăng trưởng vào năm tới ở mức 1,1 triệu thùng/ngày. Wood Mackenzie dự kiến ở mức 1,4 triệu thùng/ngày. ING đã trích dẫn ước tính nhu cầu là "dưới 1 triệu thùng/ngày một chút", có thể ám chỉ đến ước tính trước đó của IEA về nhu cầu trong báo cáo gần đây về khả năng khai thác dầu mỏ vào năm 2035. Morgan Stanley đồng ý với IEA, dự báo nhu cầu tăng trưởng là 1,1 triệu thùng/ngày trong năm tới. Tuy nhiên, hầu hết các tổ chức dự báo dường như đều đồng ý rằng tăng trưởng nguồn cung sẽ vượt nhu cầu, và luôn coi Trung Quốc là nguyên nhân chính dẫn đến sự chậm lại của nền kinh tế.
Nguồn tin: xangdau.net