Năm 1973, sau cuộc chiến tranh Yom Kippur giữa Israel và liên minh các nước Ả Rập, các nhà sản xuất dầu Trung Đông tuyên bố cấm vận xuất khẩu dầu sang Mỹ như một sự trừng phạt vì sự ủng hộ của nước này đối với Israel. Sau đó là một cuộc khủng hoảng năng lượng tồi tệ. Nhưng theo Daniel Yergin, cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay thậm chí có thể còn tồi tệ hơn.
Trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 1970, giá dầu đã tăng gấp 4 lần trong vòng 3 tháng sau lệnh cấm vận. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ đã nghĩ rằng thị phần bị mất sẽ gây tổn hại về tài chính cho các quốc gia sản xuất. Nhưng thay vào đó, những nhà sản xuất đó đã bù đắp cho việc mất thị phần đó với giá cao hơn đáng kể.
Trong khi đó, người tiêu dùng tại Mỹ đã phải chịu một đòn giáng nặng nề do thiếu nhiên liệu và các biện pháp bảo tồn năng lượng khẩn cấp vì lượng dầu tiêu thụ của quốc gia này đã không ngừng tăng lên trong nhiều thập kỷ nhờ vào nguồn dầu giá rẻ của Trung Đông.
Điều thú vị là mặc dù lệnh cấm vận không liên quan đến châu Âu, nhưng châu lục này còn bị giáng một đòn nặng nề hơn do giá cả tăng vọt sau động thái của các nhà sản xuất Ả Rập. Việc phân bổ nhiên liệu đã được thực hiện và giới hạn tốc độ cấp quốc gia đã được đưa ra để tiết kiệm nhiên liệu.
Biện pháp thứ hai, về giới hạn tốc độ, nghe có vẻ quen thuộc với những biện pháp tuân theo các khuyến nghị của Cơ quan Năng lượng Quốc tế về bảo tồn năng lượng: đó là một trong mười đề xuất mà IEA liệt kê là cần thiết nhằm giảm sự phụ thuộc của EU vào nhiên liệu hóa thạch của Nga.
Thực tế là sự thiếu hụt hiện nay liên quan đến tất cả các loại nhiên liệu hóa thạch chứ không phải chỉ dầu mỏ là một trong những lý do khiến cuộc khủng hoảng này có thể tồi tệ hơn cuộc khủng hoảng vào những năm 1970, theo Yergin, người đã đưa ra bình luận của mình trong một cuộc phỏng vấn với Bloomberg tuần này.
“Tôi nghĩ rằng điều này có thể còn tồi tệ hơn,” chuyên gia này nói với Bloomberg. "Nó liên quan đến dầu mỏ, khí đốt tự nhiên và than đá, và nó liên quan đến hai quốc gia từng là siêu cường hạt nhân."
Châu Âu phụ thuộc vào Nga cho gần một nửa lượng nhập khẩu than và khí đốt tự nhiên và khoảng một phần tư lượng nhập khẩu dầu thô. Và EU vừa quyết định cấm nhập khẩu than của Nga nhằm gây tổn thất cho nền kinh tế Nga như sự trừng phạt đối với các hành động của Nga ở Ukraine.
Và đây là những gì đã xảy ra sau thông báo về lệnh cấm, vốn vẫn chưa được phê duyệt. Indonesia đã nâng giá than của mình lên thêm 42%, các công ty khai thác than ở Australia cho biết họ rất ít có khả năng thay thế than của Nga, và giá than châu Á tăng vọt trong bối cảnh các báo cáo cho thấy người mua châu Âu đang săn tìm nguồn than thay thế.
Những gì đang xảy ra với than cũng khá giống với những gì sẽ xảy ra với dầu và khí đốt. Như Yergin đã lưu ý trong cuộc phỏng vấn của mình với Bloomberg, thị trường khí tự nhiên toàn cầu đã khá eo hẹp và không có sẵn nguồn cung thay thế cho khí đốt của Nga nếu nó ngừng chảy, bất chấp những nỗ lực từ phía các nhà sản xuất LNG của Mỹ nhằm thúc đẩy xuất khẩu.
Một chuyên gia năng lượng khác, David Blackmon, đã tiến một bước xa hơn trong tuần này, nói rằng Hoa Kỳ không có đủ khí đốt để thực hiện lời hứa của Tổng thống Biden với EU về việc cung cấp thêm 15 tỷ mét khối khí đốt ở dạng LNG. Blackmon lưu ý thời gian cần thiết để thúc đẩy sản xuất khí đốt và mở rộng công suất hóa lỏng cũng như đội tàu chở LNG hạn chế và đã có các cam kết xuất khẩu LNG cho những người mua khác.
Trong bối cảnh nguồn cung nhiên liệu hóa thạch thắt chặt và nhu cầu dường như vượt cung đáng kể này, mọi thứ đã trở nên rất nguy cấp dù chưa có bất kỳ lệnh cấm vận dầu khí nào, điều mà một quan chức cấp cao của EU đã đề cập có thể trở nên “cần thiết” vào một thời điểm nào đó. Chi phí sinh hoạt đang tăng trên khắp lục địa và chính phủ các nước đang vật lộn để kiềm chế lạm phát. Do đó, nếu EU đi theo con đường cấm vận, hậu quả có thể rất thảm khốc, như mọi nhà phân tích đã cảnh báo trong nhiều tuần.
Nguồn tin: xangdau.net