Mười ngày trước, Trung Quốc đã công bố mức thuế trả đũa đối với nhập khẩu năng lượng của Mỹ và cũng công bố cuộc điều tra chống độc quyền đối với Google, chỉ vài phút sau khi mức thuế toàn diện đối với các sản phẩm của Trung Quốc do Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump áp đặt có hiệu lực. Bắc Kinh cho biết sẽ áp mức thuế 15% đối với than và các sản phẩm khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) cũng như mức thuế 10% đối với dầu thô, máy móc nông nghiệp và ô tô động cơ lớn. Vâng, mức thuế này có hiệu lực vào ngày 10 tháng 2, đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc chiến thương mại khác giữa các nền kinh tế lớn nhất thế giới dưới thời Trump. Các nhà phân tích hàng hóa tại Standard Chartered đã nghiên cứu sâu về những tác động tiềm ẩn của mức thuế này đối với ngành năng lượng Hoa Kỳ.
StanChart chỉ ra rằng Trung Quốc lần đầu tiên áp mức thuế 10% đối với hàng nhập khẩu LNG của Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 2018 và sau đó tăng lên 25% vào tháng 6 năm 2019. StanChart lưu ý rằng trong khi một số mặt hàng nhập khẩu vẫn tiếp tục bị áp mức thuế 10%, thì không có mặt hàng nào ở mức thuế cao hơn. Bắc Kinh sau đó đã miễn thuế đối với LNG vào tháng 2 năm 2020 như một phần của quá trình hạ nhiệt chiến tranh thương mại và sau 11 tháng không nhập thêm lô nào, với chuyến hàng đầu tiên của Hoa Kỳ cập cảng vào tháng 4 năm 2020. Theo các nhà phân tích, trong 59 tháng tiếp theo, đã nhập trở lại trong tất cả các tháng trừ ba tháng. Hơn nữa, mối quan hệ giữa các nhà sản xuất Hoa Kỳ và người mua LNG Trung Quốc đã gắn kết hơn với một số hợp đồng dài hạn được ký kết. Ngược lại, không có hợp đồng LNG dài hạn nào giữa hai nước được ký kết trước năm 2021.
Tuy nhiên, những tác động tiêu cực tiềm tàng của mức thuế quan mới nhất đối với LNG có thể sẽ bị hạn chế. Hoa Kỳ hiện cung cấp chưa đến 6% lượng LNG nhập khẩu của Trung Quốc, trong khi Trung Quốc chỉ chiếm 6% lượng xuất khẩu của Hoa Kỳ. Với nhu cầu LNG của Châu Âu có khả năng vẫn cao, StanChart đã dự đoán rằng khối lượng bị thay thế không có khả năng trở nên khó khăn. StanChart cho rằng thuế quan sẽ cắt giảm đáng kể lưu lượng hàng hóa giao ngay đến Trung Quốc, với một số dòng theo hợp đồng dài hạn có khả năng tiếp tục, tùy thuộc vào bản chất của các điều khoản tái xuất khẩu. Các chuyên gia đã cảnh báo mối đe dọa lớn nhất của các mức thuế quan này là tính kinh tế của các hợp đồng dài hạn trong tương lai, gồm các hợp đồng có tổng khối lượng ít nhất là 15 triệu tấn mỗi năm (mtpa) đã được ký kết.
Giá khí đốt của Hoa Kỳ tăng vọt do nhu cầu LNG mạnh
Giá khí đốt tự nhiên tương lai của Hoa Kỳ đã tăng lên 3,7 đô la/MMBtu, mức cao nhất trong ba tuần, do sản lượng thấp hơn, xuất khẩu LNG tăng và dự báo thời tiết lạnh hơn. Dòng khí đốt đến tám nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Hoa Kỳ trung bình đạt 15,3 bcfd từ đầu tháng 2 cho đến nay trong, tăng từ 14,6 bcfd vào tháng 1, gần với mức kỷ lục. LNG hàng ngày đạt 15,9 bcfd vào thứ Năm, vượt qua mức cao trước đó là 15,8 bcfd vào ngày 18 tháng 1. Trong khi đó, thời giết giá lạnh khắc nghiệt đã đóng băng một số giếng, khiến sản lượng khí đốt hàng ngày giảm 3,7 bcfd trong tuần qua xuống mức thấp nhất trong hai tuần là 103,0 bcfd. Dự báo thời tiết cho thấy nhiệt độ lạnh hơn bình thường cho đến ngày 22 tháng 2, thúc đẩy nhu cầu sưởi ấm. Ngoài ra, EIA báo cáo rằng các công ty điện lực của Hoa Kỳ đã rút 100 bcf khí đốt tự nhiên khỏi kho dự trữ trong tuần kết thúc vào ngày 7 tháng 2, đưa tổng lượng tồn kho xuống còn 2.297 bcf, nhiều hơn mức dự kiến là 92 bcf.
Trong khi đó, giá khí đốt tự nhiên tương lai của châu Âu đã giảm xuống dưới 51 euro/megawatt-giờ vào thứ Năm từ mức cao nhất trong hai năm là 58,039 euro/megawatt-giờ (MWh) đạt được vào ngày 10 tháng 2 do dự báo thời tiết ôn hòa hơn dự kiến sẽ làm giảm nhu cầu sưởi ấm. Theo dữ liệu của Cơ sở hạ tầng khí đốt châu Âu (GIE), lượng tồn kho của EU ở mức 56,95 tỷ mét khối (bcm) vào ngày 9 tháng 2, thấp hơn 21,45 bcm so với cùng kỳ năm ngoái và thấp hơn 8,09 bcm so với mức trung bình năm năm. Lượng khí đốt tiêu thụ trong tuần tính đến ngày 9 tháng 2 là 4,9 bcm, cao hơn 37% so với mức trung bình năm năm (3,58 bcm) và gần gấp đôi lượng khí đốt tiêu thụ trong cùng kỳ năm ngoái (2,5 bcm). Việc ngừng vận chuyển khí đốt của Nga qua Ukraine chiếm phần lớn mức giảm m/m (1,47 bcm), mặc dù lượng khí đốt tiêu thụ từ Na Uy giảm 0,824 bcm m/m cũng đóng vai trò quan trọng.
Không tính luồng trung chuyển, lượng khí đốt nhập khẩu qua đường ống của Nga vào EU chỉ đạt tổng cộng 1,362 bcm vào tháng 1 năm 2025, thấp hơn 90% so với tháng 1 năm 2021. Các nhà phân tích hàng hóa tại Standard Chartered đã dự đoán rằng nếu nhiệt độ trong thời gian còn lại của mùa đông ở bán cầu bắc trở lại bình thường, lượng tồn kho sẽ kết thúc tháng 3 ở mức gần 44 bcm, trong khi việc tiếp tục rút khối lượng lớn hơn bình thường gần đây sẽ dẫn đến mức tồn kho cuối mùa là 39,1 bcm. Dự báo sau cho mức tối thiểu cuối mùa sẽ ít hơn 29 bcm so với con số của năm ngoái, nhưng cao hơn ~10 bcm so với năm 2022 ngay sau cuộc xâm lược miền đông Ukraine của Nga.
Nguồn tin: xangdau.net