Vào lúc đóng cửa chiều qua tại Niu Oóc, giá dầu thô giảm 56 cent hay 1,02% còn 54,39 USD/ thùng, mức thấp nhất kể từ khi đạt 54,01 USD trong ngày 29/01/2007.Giá xăng RBOB giảm 3,78 cent hay 3,22% còn 1,1368 USD/ gallons, giá dao động trong khoảng từ 1,1294 đến 1,1910 USD/ gallon.
Tại Luân Đôn, giá dầu thô brent giảm 47 cent hay 0,9% còn 51,84 USD/ thùng, mức thấp nhất kể từ 18/1/2007.
Như vậy là giá dầu hiện đã giảm tới 63% so với kỷ lục hồi tháng 7. Nhưng rõ ràng, nhu cầu dầu của thế giới không giảm nhiều đến thế.
Thực tế cho thấy, giá dầu không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu. Giá dầu là sản phẩm của một sự pha trộn phức tạp và liên tục biến động giữa hoạt động của giới đầu cơ, sản lượng dầu, thời tiết, chính sách của các chính phủ, kinh tế toàn cầu, thậm chí cả quãng đường mà người Mỹ lái xe trong một khoảng thời gian nào đó…
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay cũng là một “đòn chết người” đối với giá dầu.
Trong giai đoạn đầu của khủng hoảng, đồng USD suy yếu so với Euro, nhưng khi khủng hoảng vượt ngoài tầm kiểm soát trên phạm vi toàn cầu, thị trường lại chuyển sang “ưu ái” đồng tiền này. Do dầu được giao dịch bằng đồng USD, khi tỷ giá USD tăng, giá dầu phải giảm xuống và ngược lại.
Tuy nhiên, cho tới nay, đồng Euro mới chỉ mất giá 20% so với USD, nhưng giá dầu lại mất giá tới 63%. Như vậy có nghĩa là, đồng USD cũng phải là “thủ phạm” của toàn bộ sự trượt dốc của giá dầu thô, mà mới chỉ là một phần của câu chuyện.
Thị trường chứng khoán toàn cầu đã chao đảo mạnh khi những thông tin về các vụ giải cứu các tổ chức tài chính và ngân hàng xuất hiện nhan nhản trên các phương tiện truyền thông.
Khi giá dầu bắt đầu giảm, các nhà đầu cơ phải nộp thêm tiền ký quỹ cho sở giao dịch để giữ hợp đồng. Nhưng đúng lúc này, tất cả các danh mục đầu tư của giới đầu tư cùng đồng loạt co lại vì mọi các thị trường cùng đi xuống. Do đó, các nhà đầu cơ dầu lửa giá lên buộc lòng phải phải bán ra hợp đồng.
Mặt khác, do để đầu tư vào thị trường hàng hoá, trong đó có dầu, giới đầu tư đều vay nợ nhiều và chỉ thực sở hữu một phần giá trị khối lượng dầu mà họ mua, nên khi thua lỗ, các nhà đầu cơ phải xoay sở mọi cách để trả nợ. Giá dầu càng giảm, giới đầu cơ càng phải bán ra mạnh để bù đắp những thua lỗ này hoặc để cắt lỗ, vì cùng lúc, các danh mục đầu tư khác của họ cũng trượt dốc theo.
Khi sự sụt giảm trên tất cả các thị trường vượt quá tầm kiểm soát, nhà đầu tư nào cũng muốn làm một việc duy nhất: thanh lý tất cả các hợp đồng. Thua lỗ trên thị trường chứng khoán thậm chí còn buộc cả những nhà đầu tư có danh mục đa dạng và muốn giữ các hợp đồng hàng hoá đầu cơ giá lên để đề phòng lạm phát cũng phải bán ra những hợp đồng này.
Có nhà quan sát ví von, cuộc khủng hoảng tài chính là mồi lửa, còn những nỗ lực bán ra để bù lỗ là nguồn xăng tiếp cho mồi lửa này. Một phản ứng dây chuyền đã xảy ra khi giới đầu tư trên thị trường dầu chứng kiến tiền của họ biến mất trong danh mục đầu tư “vàng đen” và tất cả các danh mục khác.
Với sự xuất hiện của khủng hoảng tín dụng, các ngân hàng thắt chặt cho vay, khiến những nhà đầu tư lớn quan tâm tới việc giữ các hợp đồng đầu cơ giá lên cũng không thể huy động được vốn để nộp tiền ký quỹ.
Thậm chí cả các ngân hàng đầu tư cũng thực hiện bán ra các hợp đồng dầu lửa kỳ hạn để thoát nợ. Sự đổ vỡ của các tổ chức tài chính lớn cũng đóng góp trực tiếp vào sự trượt dốc của giá dầu.
Trong những năm gần đây, nhiều quỹ giao dịch hàng hoá của một số ngân hàng lớn như quỹ Phibro của Citigroup đã “gặt hái” lớn từ hoạt động đầu tư trên thị trường hàng hoá. Điều này cho thấy, các ngân hàng chính là những tổ chức đầu cơ dầu giá lên và có thể chính họ đã góp phần tạo ra giá dầu cao.
Tuy nhiên, với sự đổ vỡ của những ngân hàng này, cùng với việc giá dầu vốn đã giảm, các ngân hàng buộc phải thanh lý các hợp đồng này, khiến giá dầu càng giảm sâu hơn.
Mặt khác, trước đây, giá dầu có thể đã tăng vì nỗi lo ngại lạm phát và nhu cầu dầu gia tăng của thế giới, thì nay, giá dầu giảm cũng vì nỗi sợ hãi về sự hãm phanh đột ngột của kinh tế toàn cầu. Tựu chung, cơ chế của sự sụt giảm giá dầu này vẫn là hoạt động bán tháo ồ ạt của giới đầu cơ.
Ai đó có thể đặt câu hỏi: Vậy vấn đề cung cầu đóng vai trò gì đối với sự sụt giảm của giá dầu? Câu trả lời cho câu hỏi này có thể chỉ có ở trong những cuốn sách giáo khoa về kinh tế.
Có lẽ cuộc khủng hoảng tín dụng sẽ phần nào làm giảm nhu cầu dầu của thế giới ở một mức độ nào đó, nhưng không đủ sức để khiến giá dầu giảm quá nửa như vậy. Đúng là suy thoái đang gõ cửa kinh tế thế giới, và thực tế này có thể khiến giá dầu còn giảm sâu hơn, nhưng nỗi lo ngại này không phải là toàn bộ câu chuyện phía sau sự sụt giảm của giá dầu.
Tới đây, cần ghi chú thêm rằng, không phải vì kinh tế thế giới thịnh vượng mà giá dầu tăng gấp đôi trong vòng một năm, để đạt mức đỉnh 147,27 USD/thùng ngày 11/7 vừa qua.