Tại Niu Oóc, giá dầu thô kỳ hạn tháng 4/2009 giảm 3,38 USD hay 7,39% còn 42,33 USD/ thùng, giá dao động trong khoảng từ 42,33 USD/ thùng đến 42,08 USD/ thùng.Giá xăng RBOB kỳ hạn tháng 4/2009 giảm 4,60 cent hay 3,55% còn 1,2512 USD/ gallons, giá dao động trong khoảng từ 1,2450 đến 1,3170 USD/gallons.
Tại Luân Đôn, giá dầu brent kỳ hạn tháng 4/2009 giảm 2,56 USD hay 5,82% còn 41,40 USD/ thùng, giá dao động từ 41,30 đến 44,44 USD/thùng.
Nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc đã giảm 15 % trong tháng 2/2009 mặc dù nhập khẩu chất đốt tăng.Dự trữ xăng của Mỹ giảm 3 triệu thùng còn 212,3 triệu thùng so với dự kiến giảm 400.000 thùng trước đó.
Cơ quan năng lượng Mỹ dự kiến dự trữ dầu thô của Mỹ đã tăng 700.000 thùng đạt 351,3 triệu thùng trong tuần trước đó, tăng so với dự báo trước đó của Reuter.
Một số chuyên gia kinh tế tài chính liên quan đến lĩnh vực dầu mỏ cho rằng với tình trạng suy thoái kinh tế như hiện nay, giá dầu thô trên thị trường thế giới sẽ còn tiếp tục giảm, cho dù Hiệp hội các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã quyết định cắt giảm sản lượng. Mức giá dầu thô hiện nay vào khoảng 40 USD/thùng, nhưng có thể sẽ tụt xuống mức 20 USD/thùng và sẽ đứng ở mức giá thấp trong vòng vài năm.
Tuy nhiên, nhiều nhà quản lý dầu mỏ không nhất trí với dự báo này. Phó Chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC), cho rằng nếu giá dầu thô đứng ở mức dưới 40 USD/thùng trong một thời gian quá dài thì nhiều giếng dầu sẽ phải đóng cửa.
Giới phân tích cho rằng diễn biến giá dầu thô rất khó lường. Năm ngoái, khi giá dầu thô vọt lên mức 147 USD/thùng đã có nhiều dự báo đưa ra con số 200 USD/thùng, nhưng thực tế giá dầu giảm xuống 100 USD/thùng. Tuy nhiên theo hai nhà kinh tế Kenneth Rogoff của Đại học Harvard và Nouriel Roubini của Đại học Tổng hợp Niu Yoóc, giá dầu thô sẽ tụt giảm trong thời gian tới. Ông Roubini nói: "Theo dự báo của tôi, giá dầu thô có thể tụt xuống mức 20 USDD/thùng, nếu suy thoái kinh tế tiếp tục xấu đi". Ông cho rằng trong khi hai động lực chính liên quan đến giá dầu thô là kinh tế của Mỹ và Trung Quốc, nhu cầu của hai nước này đều tụt giảm.
Theo kinh tế gia trưởng của the New York broker LCM Commodities, Edward L. Morse, trong vòng 60 năm trở lại đây, cứ sau mỗi cú sốc năng lượng thì nhu cầu về dầu thô lại tăng một cách chậm chạp. Chẳng hạn, trước cuộc khủng hoảng năng lượng 1973, nhu cầu dầu mỏ tăng 8%/năm và cuối những năm 1970, nhu cầu tụt xuống mức 4%/năm. Còn sau cuộc chiến giữa Irắc và Côoét, nhu cầu dầu chỉ tăng từ 1,5% tới 1,8%/năm. Ông Morse cho rằng khi kinh tế toàn cầu phục hồi sau cuộc khủng hoảng hiện nay, nhu cầu dầu thô chỉ tăng khoảng 1%/năm đối với các nền kinh tế cần nhiều dầu thô như Mỹ, Trung Quốc và Trung Đông.
Trong những năm gần đây, nhu cầu dầu thô của Trung Quốc tăng 10%/năm, song đã tụt xuống mức 4% vào tháng 12/08 và trong năm 2009 có thể chỉ tăng 0,7%. Tại Mỹ, trong năm 2008, nhu cầu dầu giảm 6% và nhu cầu xăng máy bay giảm tới 11% trong tháng 1 vừa qua.
Thị trường | Loại dầu | Kỳ hạn | Giá đóng cửa | Chênh lệch |
Niu Oóc | | | | |
( USD/ thùng) | Dầu thô | Tháng 4/2009 | 42,33 | -3,38 USD |
Luân Đôn | | | | |
( USD/ thùng) | Dầu brent | Tháng 4/2009 | 41,40 | -2,56 USD |
Niu Oóc( USD/ gallon) | Xăng RBOB | Tháng 4/2009 | 1,2512 | -4,60 cents |
(Vitinfo)