Cuộc chiến ở Ukraine, lệnh cấm nhập khẩu dầu Nga sau đó của Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, cuộc khủng hoảng năng lượng của châu Âu, và những hạn chế về nguồn cung đều cho thấy sự cần thiết phải mở rộng sản xuất dầu thô toàn cầu. Gần một thập kỷ thiếu đầu tư do sự sụp đổ của giá dầu vào cuối tháng 8 năm 2014 đã chứng kiến những hạn chế đáng kể về nguồn cung, vốn đang trở nên trầm trọng hơn do nhu cầu năng lượng tăng cao khi đại dịch COVID-19 giảm bớ. Điều này đã châm ngòi cho một đợt tăng giá dầu lớn, tiếp tục được thúc đẩy bởi cuộc xâm lược của Moscow vào Ukraine, quốc gia lớn thứ hai của châu Âu, và đẩy chuẩn Brent tăng xoáy ốc lên hơn 130 USD/thùng trước khi giảm mạnh xuống dưới 100 USD/thùng. Hạn chế về nguồn cung gia tăng, lượng dầu tồn kho cạn kiệt và lệnh cấm nhập khẩu dầu của Mỹ và Anh đều cho thấy nhu cầu cấp thiết phải thúc đẩy nguồn cung dầu thô toàn cầu. Điều này đặc biệt xảy ra khi OPEC không thể hoặc không sẵn sàng mở rộng sản xuất một cách đáng kể, điều này đã khiến các nhà phân tích ngành năng lượng suy đoán rằng hầu hết các bên tham gia thỏa thuận OPEC+ đều sở hữu ít hoặc không có công suất dự phòng. Chính quốc gia Nam Mỹ nhỏ bé nghèo khó Guyana lại có vị trí lý tưởng để hưởng lợi từ giá dầu thô tăng theo chiều xoắn ốc và phí bảo hiểm rủi ro đáng kể do các sự kiện địa chính trị gần đây tạo ra. Thuộc địa Guyana trước đây của Anh đang trong thời kỳ bùng nổ dầu mỏ ngoài khơi, bắt đầu với phát hiện dầu khí đầu tiên của ExxonMobil, vào năm 2015 tại mỏ Liza ở Lô Stabroek ngoài khơi. Kể từ đó, ông lớn này cùng với các đối tác Hess và CNOOC đã thực hiện tốt hơn 20 phát hiện dầu chất lượng ở ngoài khơi. Exxon ước tính có ít nhất 10 tỷ thùng dầu có thể được khai thác tại Stabroek Block, mang lại cho Guyana trữ lượng dầu cao hơn so với nhiều nước láng giềng Nam Mỹ bao gồm Colombia và Ecuador.
Dự án Liza giai đoạn một của Exxon đã đạt công suất theo kế hoạch vào tháng 12 năm 2020 với kho chứa nổi (FPSO) Liza Destiny bơm 120.000 thùng mỗi ngày. Liza giai đoạn một có tính kinh tế ấn tượng, thậm chí hòa vốn ở mức thấp 35 USD/thùng, thấp hơn đáng kể so với hầu hết các khu vực pháp lý khác ở Nam Mỹ như Brazil, nơi các dự án tiền muối có mức hòa vốn trung bình ước tính khoảng 40 USD/thùng. Việc khởi động sản xuất tại dự án Liza Giai đoạn Hai đã được Exxon công bố vào tháng 2 năm 2022. Đây là bước phát triển đặc biệt quan trọng đối với Guyana, Exxon cũng như các đối tác của mình tại Stabroek Block và đối với nguồn cung dầu toàn cầu. Liza Unity FPSO, đến Guyana vào tháng 10 năm 2021, dự kiến sẽ bơm 220.000 thùng mỗi ngày vào giữa năm 2022, mang lại cho mỏ dầu Liza tổng sản lượng khoảng 340.000 thùng mỗi ngày. Theo Hess, Liza Giai đoạn Hai có giá hòa vốn dự kiến là 25 USD/thùng, khiến nó trở thành một trong những dự án dầu có chi phí thấp nhất đang được triển khai ở Mỹ Latinh. Exxon cũng đang trong quá trình phát triển dự án Payara ở Stabroek Block. Việc khai thác đã được phê duyệt trong năm 2020 và sẽ tăng thêm 220.000 thùng mỗi ngày với FPSO Thịnh vượng dự kiến sẽ bắt đầu hoạt động trong năm 2024 với mức giá hòa vốn dự báo là 32 USD/thùng.
Tính kinh tế hấp dẫn ở ngoài khơi Guyana, nơi giá hòa vốn trung bình được chốt ở mức dưới 40 đô la và dự kiến sẽ giảm đáng kể khi kỹ thuật khoan được cải thiện và cơ sở hạ tầng quan trọng được xây dựng, sẽ thu hút đầu tư đáng kể. Cường độ carbon thấp của dầu thô được phát hiện ở ngoài khơi Guyana, rõ ràng từ loại Liza của Exxon có tỷ trọng API là 32 độ và hàm lượng lưu huỳnh 0,58%, làm tăng sức hấp dẫn của việc đầu tư vào quốc gia Nam Mỹ nghèo khó này. Điều này là do động lực ngày càng tăng nhằm khử cacbon trong nền kinh tế thế giới như một yếu tố then chốt của cuộc chiến chống lại sự nóng lên toàn cầu, khi các bên ký kết Hiệp định Paris cam kết giữ cho nhiệt độ tăng ở mức dưới 2 độ C.
Ngành công nghiệp dầu mỏ của Guyana đang trên đà tăng trưởng sản lượng đáng kể với dự kiến sẽ bơm từ 1 triệu đến 1,2 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2030. Tuy con số này cho thấy Guyana sẽ đóng góp đáng kể vào nguồn cung dầu thô toàn cầu, nhưng sản lượng sẽ được bổ sung trong năm 2022 khoảng 220.000 thùng/ngày sẽ không thể bù đắp được sự thiếu hụt do lệnh cấm nhập khẩu dầu của Nga. Nga đã bơm trung bình 10,5 triệu thùng dầu thô và khí ngưng mỗi ngày trong năm 2021. Điện Kremlin dự kiến con số này sẽ tăng lên 5%, nếu đạt được, nhà sản xuất xăng dầu lớn thứ ba thế giới sẽ bơm 11,05 triệu thùng mỗi ngày trong năm 2022. Matxcơva đóng một vai trò lớn hơn khi nói đến nguồn cung dầu thô toàn cầu, vốn được tăng cường hơn nữa nhờ trở thành một thành viên chính trong thỏa thuận OPEC+.
Nga là nước xuất khẩu dầu thô lớn thứ hai thế giới sau Ả Rập Xê-út, cung cấp khoảng 5 triệu thùng dầu thô và khí ngưng mỗi ngày, trong đó Tây Âu là điểm đến chính cho những mặt hàng xuất khẩu năng lượng đó. Trong khi OECD Châu Âu nhận được 4,7 triệu thùng dầu thô mỗi ngày từ Nga, thì chỉ có 670.000 thùng được chuyển đến Mỹ, vào năm 2021, chỉ chiếm 8% tổng lượng xăng dầu nhập khẩu của Mỹ. Nga là nhà cung cấp dầu thô lớn thứ ba cho Mỹ sau Mexico, nước đứng thứ hai, cung cấp 710.000 thùng mỗi ngày trong năm 2021 và Canada đứng đầu cung cấp 4,34 triệu thùng mỗi ngày. Những con số đó nhấn mạnh lý do tại sao Washington, đặc biệt là so với Tây Âu, có thể cấm nhập khẩu năng lượng của Nga.
Rất khó để biết sản lượng dầu thô đang tăng nhanh của Guyana sẽ thay thế xuất khẩu dầu thô của Nga như thế nào hoặc giải quyết tình trạng nguồn cung thắt chặt hiện tại trong ngắn và trung hạn ra sao. Thuộc địa cũ của Anh dự kiến sẽ chỉ bổ sung khoảng 220.000 thùng mỗi ngày trong năm 2022, chỉ bằng 4% xuất khẩu dầu và khí ngưng tụ của Nga. Ngay cả sau khi tính đến dự án Payara của Exxon, có công suất dự kiến là 220.000 thùng/ngày, Guyana cũng sẽ chỉ tăng sản lượng xăng dầu của mình thêm 440.000 thùng vào cuối năm 2024. Rõ ràng, Washington sẽ cần phải nhìn sang nơi khác, chủ yếu là OPEC, nếu muốn nguồn cung dầu thô toàn cầu tăng lên.
Nguồn tin: xangdau.net