Sự thay đổi được chờ đợi từ lâu trong khuôn khổ chính sách tiền tệ của Nhật Bản là một trong những điều mà các nhà đầu tư sẽ hết sức chú ý vào năm 2024.
Trong nhiều thập kỷ, Nhật Bản đã áp dụng chính sách tiền tệ cực kỳ nới lỏng trong nỗ lực gần như không thành công nhằm kích thích nền kinh tế đang ngủ yên của mình.
Lãi suất ở Nhật Bản đã ở mức dưới 0 kể từ năm 2016 và chưa bao giờ vượt quá 1% trong thiên niên kỷ này.
Các hình thức thử nghiệm tiền tệ khác cũng đã được thử nghiệm. Kiểm soát đường cong lợi suất, trong đó ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường trái phiếu nhằm cố gắng đạt được một mức lãi suất nhất định, được đưa ra vào năm 2016 sau nhiều năm nới lỏng định lượng mạnh mẽ.
Theo IMF, Ngân hàng Nhật Bản hiện sở hữu 70% tổng số trái phiếu chính phủ Nhật Bản kỳ hạn 5 năm và hơn 80% trái phiếu chính phủ Nhật Bản kỳ hạn 10 năm.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư ngày càng chắc chắn rằng sự thay đổi sớm muộn gì cũng sẽ diễn ra.
Lạm phát, điều gần như không tồn tại ở Nhật Bản trong suốt 30 năm qua, đã tăng lên 3,3%. Lạm phát CPI cơ bản được dự đoán sẽ tăng chậm trong khi dự báo lạm phát cũng tăng vừa phải.
Trong cuộc họp cuối cùng trong năm 2023, ngân hàng trung ương xác nhận rằng lãi suất sẽ vẫn ở mức âm, nhưng Thống đốc Ngân hàng cho biết nền kinh tế đang “tiến đều đặn để đạt được lạm phát ổn định ở mức 2% ».
Mặc dù vẫn chưa có thay đổi nào xảy ra, nhưng nhiều nhà giao dịch kỳ vọng rằng BoJ sẽ mạnh dạn thay đổi hướng đi sau vòng đàm phán lương Shunto hàng năm mới nhất, diễn ra vào mùa xuân năm sau.
Các nhà hoạch định chính sách hy vọng điều này sẽ cho thấy lạm phát do nguyên nhân trong nước nhiều hơn.
Neil Wilson của Finalto cho biết: “Những cuộc đàm phán vào mùa xuân này là chìa khóa để đạt được lạm phát bền vững - họ không muốn duy trì tình trạng giảm phát lâu dài”.
Nhưng sau nhiều năm chính sách nới lỏng, những thay đổi trong chế độ tiền tệ có nguy cơ gây ra những xáo trộn tài chính lớn.
Mối nguy hiểm trong nước là các quỹ đầu tư Nhật Bản phải đối mặt với tình huống không khác gì cuộc khủng hoảng LDI mùa thu năm 2022.
Nếu BoJ từ bỏ việc kiểm soát đường cong lợi suất, lợi suất có thể sẽ tăng và giá trái phiếu sẽ giảm. Lợi suất trái phiếu và giá di chuyển ngược chiều.
Giá trái phiếu giảm khiến các nhà đầu tư có nguy cơ mất khả năng thanh toán, trong một số trường hợp buộc họ phải bán tài sản nhằm cố gắng củng cố vị thế của mình. Nhưng điều này chỉ khiến giá trái phiếu càng giảm xuống, bắt đầu một vòng luẩn quẩn.
Marcel Thieliant, người đứng đầu khu vực châu Á-Thái Bình Dương tại Capital Economics, cho rằng đây không phải là rủi ro lớn đối với các quỹ hưu trí Nhật Bản vì họ chỉ nắm giữ khoảng 5% số trái phiếu chính phủ đang lưu hành.
Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm là một “đường lỗi lớn hơn”, Thieliant cảnh báo. Các công ty bảo hiểm nắm giữ khoảng 20% số nợ tồn đọng của chính phủ, khiến họ có nguy cơ mất khả năng thanh toán nếu giá giảm mạnh. Các công ty bảo hiểm cũng nắm giữ ít tài sản lưu động hơn, nghĩa là họ có nhiều rủi ro hơn từ việc bán phá sản.
Trong khi những mối nguy hiểm trong nước là có thật, các nhà đầu tư toàn cầu cũng lo lắng về những tác động lan rộng có thể xảy ra.
Lợi suất thấp ở Nhật Bản đã khiến các nhà đầu tư chuyển sang thị trường quốc tế. IMF ước tính danh mục tài sản đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản đạt 5 nghìn tỷ USD trong quý 4 năm 2020, gấp đôi mức trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Điều này được thúc đẩy bởi khả năng vay vốn rẻ ở Nhật Bản, nơi lãi suất âm và đầu tư số vốn đó vào thị trường toàn cầu của các nhà đầu tư.
Gordon Shannon, nhà quản lý danh mục đầu tư tại Twenty Four Asset Management cho biết: “Việc vay bằng đồng yên với giá rẻ và đầu tư vào tài sản nước ngoài là cách kiếm tiền dễ dàng đối với những người liên quan”.
Ông tiếp tục: “Nhưng ngay cả dự đoán về một BoJ ít dự đoán hơn cũng sẽ khiến một số người tham gia rời khỏi giao dịch chênh lệch giá, một lần nữa làm giảm nhu cầu đối với tài sản nước ngoài”.
Nếu lãi suất bắt đầu tăng ở Nhật Bản, các nhà đầu tư trong nước có thể sẽ rút lui phần nào khỏi sự hiện diện quốc tế của họ, điều này có thể có tác động rất lớn đến sự ổn định tài chính tại thời điểm vốn đã có nhiều biến động trên thị trường trái phiếu.
Các nhà đầu tư Nhật Bản là những người nắm giữ trái phiếu Kho bạc Hoa Kỳ lớn nhất bên ngoài nước Mỹ. Họ là những người nắm giữ trái phiếu chính phủ lớn ở hầu hết các nền kinh tế tiên tiến, bao gồm khoảng 10% nợ của Australia và Hà Lan.
Họ cũng có sự hiện diện đáng kể ở Anh, sở hữu khoảng 5% nợ chính phủ và từ 1 đến 2% cổ phần của Vương quốc Anh.
Nếu các nhà đầu tư Nhật Bản thay đổi hành vi của họ một cách đáng kể, thị trường vốn đã lo lắng cũng có thể gặp phải một sự không chắc chắn lớn.
Các tổ chức quốc tế đã cảnh báo về những nguy hiểm mà điều này có thể gây ra đối với nền kinh tế, đặc biệt nếu những thay đổi không được báo hiệu rõ ràng cho những người tham gia thị trường.
“Điều bắt buộc là BoJ phải điện báo rõ ràng ý định của họ để tránh những biến động không chính đáng và giảm thiểu tác động lan rộng trên thị trường tài chính toàn cầu,” IMF cảnh báo hồi tháng Tư.
Vì vậy hãy chú ý đến Ngân hàng Nhật Bản vào năm 2024.
Nguồn tin: City AM
© Bản tiếng Việt của xangdau.net