Đợt tăng giá dầu đã thực sự hạ nhiệt trong ba tuần qua, khi giá dầu xuống mức từng thấy trước khi Nga xâm lược Ukraine. Việc Fed nâng lãi suất mạnh tay, các đợt phong tỏa liên quan đến đại dịch ở Thượng Hải, tăng trưởng nhu cầu dầu của Mỹ chậm lại và đợt giải phóng kho dự trữ dầu chiến lược lịch sử đều góp phần vào việc bán tháo.
Điều đó nói lên rằng, trong khi thị trường dầu thô đang chiếm sự chú ý, thì diễn biến gay cấn nhất trên thị trường dầu mỏ toàn cầu đang diễn ra ở một góc khuất hơn của thị trường: nhiên liệu chưng cất.
Giá dầu diesel và nhiên liệu máy bay ở châu Âu đã đạt mức cao kỷ lục trong bối cảnh nguồn cung khan hiếm bất thường. Cả hai mặt hàng kể từ đó đã giảm giá bớt, nhưng các nhà máy lọc dầu vẫn đang trúng đậm.
Thật vậy, trong một dấu hiệu khác cho thấy sắp xảy ra tình trạng thiếu hụt nhiên liệu chưng cất, nhiên liệu máy bay được giao dịch ở mức cao 7,80 USD/gallon tại New York vào tháng 5, cao hơn khoảng 200 USD so với giá nguyên liệu thô. Mức chênh lệch của giá nhiên liệu máy bay cao hơn xấp xỉ gấp 10 lần so với bất kỳ mức chênh lệch nào được nhìn thấy trong 30 năm qua.
Hồi tháng 4, Goldman Sachs dự đoán nhu cầu nhiên liệu chưng cất và tỷ suất lợi nhuận lọc dầu có khả năng vẫn cao do dự trữ diesel và nhiên liệu máy bay đang ở mức thấp lịch sử trong khi mức tiêu thụ nhiên liệu máy bay sẽ tăng tốc vào mùa hè với sự trở lại của các chuyến đi quốc tế. Chỉ vài tuần trở lại đây, GS dự đoán giá dầu thô Brent sẽ đạt trung bình 140 USD/thùng trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 9, mức có thể không khuyến khích tiêu dùng nhưng cũng không khuyến khích sản xuất mới.
Nhưng có vẻ như GS có thể đã vội vàng đưa ra dự báo: Nhà phân tích thị trường John Kemp của Reuters hiện đã cảnh báo rằng tiêu thụ dầu diesel của Mỹ có khả năng giảm 200.000 đến 600.000 thùng mỗi ngày (5% -15%) trong năm tới khi nền kinh tế trì trệ phản ứng với lãi suất tăng.
Dầu nhiên liệu chưng cất là một danh mục bao gồm dầu diesel và dầu sưởi. Đây là những sản phẩm dầu mỏ nhạy cảm nhất với những thay đổi trong chu kỳ kinh doanh, và do đó có khả năng bị ảnh hưởng nhiều nhất khi nền kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng chậm lại.
Tiêu thụ sụt giảm
Theo Kemp, dữ liệu lịch sử cho thấy cả suy thoái và trì trệ giữa chu kỳ đều có xu hướng làm giảm tiêu thụ sản phẩm chưng cất từ 5% đến 15% so với năm ngoái. Khối lượng sản phẩm chưng cất cung cấp cho các khách hàng trong nước tại Hoa Kỳ hiện đang ở mức hơn 4 triệu thùng/ngày một chút, có nghĩa là mức suy giảm dự kiến tương đương từ 200.000 đến 600.000 thùng/ngày.
Kemp lưu ý rằng trong khi Cục Dự trữ Liên bang không cố ý cố gắng gây ra suy thoái để kiểm soát lạm phát, thì ngân hàng trung ương sẵn sàng vượt qua giới hạn thông thường và đẩy nền kinh tế vào suy thoái khi phải vật lộn để giảm lạm phát với tốc độ nhanh nhất trong 40 năm.
Điều đó cho thấy, Fed khó có thể bị đổ lỗi cho tình hình hiện tại.
Lịch sử cho thấy rằng việc mở rộng chu kỳ kinh doanh kéo dài có xu hướng dẫn đến sự xói mòn dần của sản lượng dầu thô dự phòng và công suất lọc dầu, điều này cuối cùng gây áp lực tăng mạnh lên giá dầu thô và tỷ suất lợi nhuận lọc dầu. Mặt khác, các đợt suy thoái có xu hướng khôi phục lại biên công suất và tồn kho cao hơn ở cả dầu thô và sản phẩm lọc dầu nhưng cũng dẫn đến áp lực giảm giá và tỷ suất lợi nhuận.
Hiện nay, thế giới đang cạn kiệt công suất dự phòng nhanh chóng để khai thác nhiều dầu thô hơn và biến nó thành nhiên liệu tinh chế, đặc biệt là dầu diesel, nhờ vào sự phục hồi nhanh chóng của tiêu thụ dầu sau đại dịch. Cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine cũng như các lệnh trừng phạt sau đó của Mỹ và châu Âu, chỉ làm trầm trọng thêm tình hình. Nga là nguồn cung cấp nhiên liệu chưng cất quan trọng cho châu Âu và thế giới. Ngay sau khi chiến tranh bắt đầu, BP Plc (NYSE: BP) và Shell (NYSE: SHEL) đã ngừng bán dầu diesel giao ngay tại Đức. Ngay sau đó, YPF Sociedad Anónima (NYSE: YPF) của Argentina đã cảnh báo về sự “khan hiếm” dầu diesel trên thị trường nhập khẩu qua đường biển. Biên lợi nhuận nhiên liệu máy bay ở cảng New York đã tăng vọt lên 200 đô la/thùng ngay sau cuộc xâm lược, tăng gấp 10 lần so với mức trung bình trong lịch sử.
Kết quả là giá dầu thô và tỷ suất lợi nhuận lọc dầu tăng nhanh, phản ánh sự kết thúc của đợt bùng nổ trước đó vào năm 2008 và 2001.
Dựa trên kinh nghiệm trong quá khứ, cách duy nhất để giải quyết vấn đề này là giảm tốc độ chu kỳ kinh doanh để khôi phục mức công suất dự phòng cao hơn và đảo ngược một số đợt tăng giá và biên lợi nhuận.
Nguồn tin: xangdau.net