Venezuela, từng là nhà sản xuất dầu lớn nhất của khu vực Mỹ Latinh và là thành viên sáng lập của OPEC, đã chứng kiến sự sụp đổ của ngành công nghiệp dầu mỏ quan trọng về mặt kinh tế, gây ra một trong những cuộc khủng hoảng kinh tế và nhân đạo tồi tệ nhất thế kỷ. Nỗi đau còn lâu mới kết thúc đối với người dân Venezuela và nền kinh tế đang tàn lụi của nước này. Trước năm 1920, Venezuela là một quốc gia nông nghiệp nghèo phải đối mặt với nhiều vấn đề nảy sinh gây khó khăn cho Mỹ Latinh. Hành trình trở thành một siêu cường dầu thô, quốc gia dầu mỏ hàng đầu và thành viên sáng lập OPEC của nước này bắt đầu vào năm 1914 với việc khoan giếng Zumaque ở mỏ Mene Grande trên bờ đông của Hồ Maracaibo. Đây là giếng dầu thương mại đầu tiên của Venezuela và nó đã mở ra một cuộc bùng nổ dầu mỏ hoành tráng làm biến đổi đất nước và đến năm 1950 chứng kiến quốc gia này trở thành quốc gia giàu có thứ tư trên thế giới tính theo đầu người. Venezuela không chỉ được coi là quốc gia giàu có nhất của Mỹ Latinh mà còn là quốc gia phát triển nhất. Vào những năm 1970, quốc gia này, hiện là một chế độ độc tài xã hội chủ nghĩa, được ca ngợi là nền dân chủ ổn định nhất của Mỹ Latinh vào thời điểm khi hầu hết các quốc gia trong khu vực bị cai trị bởi các chế độ độc tài quân sự. Vào những năm 1980, nền dân chủ của Venezuela đã trở nên lung lay vì suy thoái kinh tế toàn cầu và giá dầu giảm mạnh. Những sự kiện này đã đè nặng lên nền kinh tế và chi tiêu của chính phủ, khiến đất nước rơi vào vòng xoáy nợ nần. Vào cuối những năm 1980, Caracas đã nhờ Quỹ Tiền tệ Quốc tế giúp đỡ. IMF khuyến nghị các cải cách kinh tế tân tự do theo định hướng thị trường bao gồm cắt giảm ngân sách dã man, chủ yếu tác động đến các chương trình xã hội như y tế công cộng và giáo dục. Khi những cải cách này được Caracas thực hiện, chúng đã gây ra tình trạng bất ổn dân sự đáng kể. Các cải cách cũng làm khơi mào tình trạng lạm phát phi mã, vốn chỉ làm trầm trọng thêm nỗi thống khổ hàng ngày của người dân Venezuela. Những sự kiện đó cho thấy sự phụ thuộc đáng kể của nền kinh tế Venezuela vào dầu mỏ và tính dễ bị tổn thương của nước này với giá dầu yếu hơn. Chính sự thất bại của chính phủ trong việc đa dạng hóa nền kinh tế để thoát khỏi dầu mỏ là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng, trong đó xăng dầu chiếm khoảng 80% thu nhập xuất khẩu, gần một phần ba GDP và hơn một nửa thu nhập cho chính phủ. Đến tháng 2 năm 1989, đường phố Caracas, nơi từng được ví như viên ngọc quý của Nam Mỹ, bùng nổ bạo loạn do không hài lòng với giá cả tăng cao và chính phủ mạnh tay hơn. Một cuộc đàn áp khắc nghiệt của chính phủ, khiến cho tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng gia tăng, đồng thời cắt giảm chi tiêu khắc khổ đã gây ra sự bất đồng đáng kể giữa những người nghèo ở Venezuela. Sự biến động kinh tế và xã hội này đã tạo ra môi trường chính trị lý tưởng cho một sĩ quan quân đội cấp dưới có uy tín và đảng viên xã hội chủ nghĩa Hugo Chávez giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1998. Khi mới nhậm chức, Chávez bắt đầu cuộc Cách mạng Bolivar của mình, cải cách hiến pháp, thiết lập các chương trình xã hội rộng lớn và phân chia lại đất đai. Giống như những người tiền nhiệm, Chávez điều hành nền kinh tế gần như hoàn toàn dựa vào dầu mỏ. Điều này chỉ bền vững khi giá dầu vẫn ở mức cao. Sau cái chết của Chávez vào năm 2013 và Nicolás Maduro lên nắm quyền, giá dầu lại lao dốc một lần nữa vào cuối năm 2014 khi Ả Rập Xê-út mở các mũi nhọn để tăng cường sản xuất và giành lại thị phần. Nền kinh tế phụ thuộc vào dầu mỏ của Venezuela rơi vào khủng hoảng khiến hàng triệu người dân Venezuela phải rời bỏ đất nước và gây ra sự sụp đổ của ngành công nghiệp lấy dầu mỏ làm quan trọng về mặt kinh tế.
Vào tháng 7 năm 2020, Venezuela đã bơm trung bình 345.000 thùng dầu thô mỗi ngày, mức thấp nhất trong gần một thế kỷ và đến tháng 9, nó chỉ tăng nhẹ lên 383.000 thùng mỗi ngày mặc dù Maduro tuyên bố về sự phục hồi sắp xảy ra. Điều này chứng tỏ triển vọng tồi tệ đối với ngành dầu khí quan trọng về mặt kinh tế của Venezuela. Điều đáng lo ngại hơn là hoạt động trong lĩnh vực năng lượng của quốc gia Mỹ Latinh này đã rơi vào bế tắc. Theo thống kê của Baker Hughes vào tháng 9 năm 2020, không có giàn khoan nào đang hoạt động ở Venezuela. Việc thiếu đầu tư và hoạt động khoan đồng nghĩa sản lượng có thể giảm xuống 0, báo trước sự kết thúc của một quốc gia sản xuất dầu hàng đầu thế giới một thời và là thành viên sáng lập OPEC. Điều đó sẽ tác động mạnh đến kim ngạch xuất khẩu dầu của Venezuela, mà vào thời kỳ đỉnh cao, họ đã kiếm được khoảng 90 tỷ USD, nhưng chỉ thu về được 22,5 tỷ USD vào năm 2019 và sẽ giảm thêm nữa trong năm 2020.
Cơ sở hạ tầng quan trọng chịu trách nhiệm cho việc thúc đẩy hoạt động thăm dò, sản xuất và lọc dầu đang đổ nát với phần lớn các cơ sở hiện giờ đã gỉ sét hoặc được tận dụng làm phế liệu. 5 năm với sự quản lý yếu kém, thiếu vốn khủng khiếp và sự “chảy máu” liên tục lao động có tay nghề cao trong ngành dầu khí có nghĩa là các hoạt động bảo dưỡng quan trọng không còn được thực hiện nữa. Sự sa sút liên tục của công ty dầu khí quốc gia PDVSA và không thể kiểm soát hoạt động cũng như cơ sở hạ tầng của mình được nhấn mạnh bởi tình trạng khẩn cấp về môi trường ngày càng tăng ở Caribe. Một báo cáo gần đây từ nhà báo Haley Zaremba của Oilprice.com chỉ ra rằng ngày càng có nhiều lo ngại về một kho chứa nổi ngoài khơi Vịnh Paria và cơ sở bốc dỡ hàng do PDVSA và tập đoàn năng lượng khổng lồ Eni của Ý cùng vận hành. Có những lo ngại rằng con tàu này có thể đổ lượng dầu thô của nó xuống vùng biển Caribe gây ra thảm họa môi trường tồi tệ hơn gấp 8 lần so với vụ tràn dầu Exxon Valdez năm 1989 ở Alaska. Tệ hơn nữa là những tuyên bố rằng cơ sở hạ tầng dầu bị phân hủy đang khiến dầu thô tràn ra các thành phố nơi PDVSA có các cơ sở hoạt động, gây nhiễm độc môi trường. Có nhiều tuyên bố về ít nhất bốn vụ tràn dầu lớn chỉ trong năm nay dọc bờ biển Caribe của Venezuela đã phá hủy môi trường và xóa sổ ngành du lịch quan trọng cũng như đánh cá, nguồn thu nhập duy nhất còn lại của những cộng đồng này.
Những sự kiện này đã gây ra một thảm họa kinh tế với mức độ khôn lường. Tác động chính dẫn đến sự sụp đổ của ngành dầu khí là tình trạng thiếu nhiên liệu trầm trọng, làm tăng thêm những khó khăn mà người dân Venezuela phải đối mặt và khiến cuộc khủng hoảng kinh tế vượt khỏi tầm kiểm soát. Điều này càng khiến Caracas thậm chí không bao giờ có thể xây dựng lại được ngành năng lượng đang đổ vỡ của nước này. Tình hình là quá tuyệt vọng đối với Caracas, khiến họ không chỉ phải tìm đến sự trợ giúp từ Nga, với Moscow là người cho vay như cứu cánh cuối cùng và là chủ sở hữu của một số tài sản dầu mỏ của Venezuela, mà còn phải bán vàng cho quốc gia đồng minh Iran để đổi lấy xăng. Tài sản nhà nước của Venezuela đã giảm đi đáng kể kể từ năm 2014. Caracas đã bán hàng tỷ đô la và vàng dự trữ để huy động vốn rất cần thiết nhằm tài trợ cho chi tiêu của chính phủ, nhưng ngay cả như vậy cũng vẫn chưa đủ. Tình trạng thiếu hụt thu ngân sách càng trở nên trầm trọng hơn do tham nhũng tràn lan. Người ta suy đoán rằng chế độ của Maduro và những người ủng hộ nó đã cướp hàng tỷ đô la ngân quỹ nhà nước vì lợi ích của chính họ. Cuộc khủng hoảng của Venezuela càng thêm nghiêm trọng bởi các lệnh trừng phạt nghiêm ngặt của Mỹ. Những lệnh trừng phạt này đã đưa Caracas ra khỏi thị trường tài chính và năng lượng toàn cầu, ngăn cản chế độ của Maduros nhận được tín dụng và bán dầu thô của Venezuela.
Những sự kiện này khiến chế độ của Maduro không thể tiếp cận các nguồn lực cần thiết để trẻ hóa ngành công nghiệp dầu mỏ quan trọng hay nền kinh tế. Bên cạnh việc sản lượng có khả năng giảm xuống 0 trong tương lai, có những dấu hiệu cho thấy ngành công nghiệp dầu mỏ bị bao vây của Venezuela sẽ phải mất một thập kỷ hoặc hơn để xây dựng lại. Sẽ cần rất nhiều vốn, công nghệ và lao động có tay nghề cao để phục hồi. Điều đó sẽ không xảy ra chừng nào Maduro còn nắm quyền và các lệnh trừng phạt của Mỹ vẫn còn hiệu lực.
Sự bùng nổ dầu ngoài khơi đang diễn ra ở nước láng giềng Guyana, nơi chi phí hòa vốn là 35 USD/thùng và đang giảm xuống, sẽ thu hút đầu tư ưu đãi từ các ông lớn năng lượng toàn cầu, đặc biệt khi rủi ro địa chính trị trong nước giảm dần. Quốc gia láng giềng Suriname, sở hữu chung lưu vực Guyana-Suriname ngoài khơi, có tiềm năng tương tự làm giảm sức hấp dẫn đầu tư vào dầu của Venezuela. Sự thúc đẩy toàn cầu ngày càng tăng đối với nhiên liệu phát thải lưu huỳnh thấp có nghĩa là trữ lượng dầu dồi dào của Venezuela không hấp dẫn, đặc biệt là so với dầu thô có hàm lượng lưu huỳnh thấp ngọt nhẹ được tìm thấy ở lưu vực Guyana-Suriname và các mỏ tiền muối của Brazil. Dự trữ dầu của Venezuela bao gồm dầu thô chua nặng, chứa nhiều lưu huỳnh, có nghĩa là chi phí lọc dầu cao hơn và nhiên liệu chất lượng thấp hơn. Dầu ngọt nhẹ có hàm lượng lưu huỳnh thấp được phát hiện ở các vùng biển lân cận Guyana và Suriname cũng như các mỏ tiền muối của Brazil đang nhanh chóng trở thành loại dầu thô được các nhà lọc dầu châu Á lựa chọn. Điều đó không chỉ có thể giải thích về quyết định của Bắc Kinh trong việc tăng cường nhập khẩu dầu từ Brazil mà còn tại sao nền kinh tế lớn thứ hai thế giới lại giảm đầu tư vào Venezuela cùng với các khoản cho vay cho chế độ của Maduro.
Sự sụp đổ của ngành công nghiệp dầu l của Venezuela, vốn từng định hình vận mệnh của quốc gia Mỹ Latinh, là một sự kiện thay đổi thế giới. Nền kinh tế của đất nước nằm trong cộng đồng Andean đã sụp đổ tạo ra một tình trạng thất bại, dẫn đến cuộc khủng hoảng người tị nạn tồi tệ thứ hai trên thế giới. Điều này đã gây ra bất ổn lớn hơn trong khu vực và khiến cuộc cách mạng Bolivar xã hội chủ nghĩa kết thúc, được cho là giúp củng cố tầm ảnh hưởng của Washington và tăng sức mạnh cho đồng minh từ trước giờ là Ả Rập Xê-út với tư cách là nhà lãnh đạo không thể tranh cãi của OPEC.
Nguồn tin: xangdau.net