Thị trường dầu mỏ đã chứng kiến giao dịch hỗn loạn trong phiên giao dịch ngày thứ Tư, với giá dầu thô Brent giao tháng 1 giảm mạnh trước khi phục hồi trở lại sau khi Donald Trump đánh bại Kamala Harris để giành quyền lãnh đạo Nhà Trắng. Phố Wall đã bày tỏ lo ngại rằng nhiệm kỳ thứ hai của Trump có thể tác động tiêu cực đến giá dầu, với các nhà sản xuất háo hức khoan và sản xuất nhiều hơn khi không bị cản trở bởi bộ máy quan liêu thời Biden. Tuy nhiên, một bộ phận khác của Phố Wall hiện đang lập luận rằng câu chuyện này có sai sót. Theo các chuyên gia hàng hóa tại Standard Chartered, sản lượng dầu của Mỹ, và đặc biệt là sản lượng dầu phi truyền thống (dầu đá phiến), đã thay đổi đáng kể kể từ thời điểm Trump lần đầu nhậm chức vào năm 2017. StanChart chỉ ra rằng sản lượng dầu thô của Hoa Kỳ đạt 13,40 triệu thùng mỗi ngày vào tháng 8 năm 2024, mức cao nhất mọi thời đại so với kỷ lục trước đó là 3,31 triệu thùng mỗi ngày được thiết lập vào tháng 12 năm 2023. Sản lượng dầu thô của Hoa Kỳ đã tăng 4,7 triệu thùng mỗi ngày kể từ mức thấp nhất trong thời kỳ đại dịch là tháng 5 năm 2020; tuy nhiên, chỉ cao hơn 0,4 triệu thùng mỗi ngày so với mức cao trước đại dịch là tháng 11 năm 2019, tương đương với tốc độ tăng trưởng sản lượng hàng năm chỉ là 80 nghìn thùng mỗi ngày trong khung thời gian này. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng được dự báo sẽ tiếp tục chậm lại trong năm nay và năm 2025. Nguồn cung dầu của Hoa Kỳ đã tăng 1,605 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2023, nhưng StanChart đã dự báo mức tăng trưởng chỉ là 630 ngàn thùng mỗi ngày vào năm 2024, chậm hơn nữa xuống còn 300 ngàn thùng mỗi ngày vào năm 2025.
StanChart lưu ý rằng động lực sản xuất dầu đá phiến của Hoa Kỳ khiến việc tăng nguồn cung dài hạn trở nên khó duy trì, lưu ý rằng sản lượng dầu của quốc gia này do một số ít nhà sản xuất lớn và độc lập thống trị, cùng với các công ty tư nhân, thay vì một công ty dầu khí quốc gia như thường thấy ở nhiều nhà sản xuất OPEC. Các công ty này phần lớn đã từ bỏ những ngày tháng khoan cật lực và áp dụng kỷ luật vốn nghiêm ngặt, tránh tăng sản lượng nhanh chóng để ủng hộ việc chi trả nhiều cổ tức hơn cho các cổ đông dưới hình thức cổ tức và mua lại cổ phiếu. StanChart cũng chỉ ra rằng hoạt động M&A trong lĩnh vực này đã làm giảm số lượng công ty hoạt động, thay đổi bối cảnh từ một mớ hỗn độn các diện tích sản xuất nhỏ thành diện tích liền kề lớn hơn. Phương thức hoạt động mới này cho phép các kỹ thuật khoan và hoàn thiện phức tạp, bao gồm các giếng nhiều bệ với các phần khoan ngang cực dài mà có thể tối ưu hóa khoảng cách và cơ sở hạ tầng liên quan. Những lợi ích về hiệu quả khoan và hoàn thiện này đã cho phép sản xuất tiếp tục tăng mặc dù số lượng giàn khoan giảm.
Quan điểm của StanChart dường như phù hợp với quan điểm của Goldman Sachs. Quay trở lại tháng 7, GS dự đoán sản lượng dầu thô của Mỹ sẽ tăng 500.000 thùng mỗi ngày trong năm nay, tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với mức tăng hơn 1 triệu thùng mỗi ngày của năm ngoái. Tuy nhiên, Hoa Kỳ sẽ chiếm 60% tăng trưởng sản lượng ngoài OPEC, với Permian dự kiến sẽ đạt mức tăng trưởng hàng năm là 340.000 thùng mỗi ngày, giảm so với dự báo đầu năm là 520.000 thùng mỗi ngày của ngân hàng Phố Wall. Theo GS, những tiến bộ về công nghệ và hiệu quả đã chiếm hầu như toàn bộ mức tăng trưởng của lưu vực đá phiến Texas-New Mexico kể từ năm 2020; tuy nhiên, ngân hàng đã cảnh báo rằng "Permian đang trưởng thành và địa chất xấu đi của nó sẽ ảnh hưởng đến sản lượng dầu thô trong tương lai". Số lượng giàn khoan Permian đã giảm gần 15% so với mức cao nhất vào tháng 4 năm ngoái xuống còn 309 hiện tại và thấp hơn 30% so với mức trung bình 2018-2019, Goldman Sachs tiết lộ. GS dự đoán số lượng giàn khoan Permian sẽ xuống dưới 300 vào cuối năm 2025.
Để củng cố lập trường lạc quan của mình, StanChart cũng chỉ ra rằng dầu đá phiến có hồ sơ sản xuất khác với dầu truyền thống. Trong khi sản lượng dầu đá phiến được đưa vào khai thác nhanh chóng, mức đỉnh chỉ được duy trì trong một thời gian tương đối ngắn, thường là vài tháng, sau đó sẽ xảy ra tình trạng suy giảm đột biến. Tốc độ suy giảm được xác định bởi một số yếu tố, bao gồm đặc điểm của vỉa chứa, kỹ thuật hoàn thiện và sản lượng giảm, nhưng có thể dao động từ 40-80%. Tốc độ suy giảm cao như vậy và thời gian sản xuất ngắn có nghĩa là phải liên tục đưa sản lượng mới vào khai thác, cái gọi là 'hiệu ứng Nữ hoàng đỏ'. Được quản lý hiệu quả, StanChart đã dự đoán nguồn cung của Hoa Kỳ sẽ ổn định ở mức giá hiện tại.
Thuế quan nhập khẩu tiếp tục làm nản lòng thêm sự gia tăng sản lượng lớn. Quay trở lại năm 2018, Trump đã áp thuế 25% đối với một số mặt hàng thép nhập khẩu và 10% đối với nhôm. Ông đã cam kết áp thuế suất cao tới 60% đối với các sản phẩm nhập khẩu. Thép được sử dụng trong suốt giai đoạn khoan và sản xuất, với thép đã qua xử lý cần phải có cho thiết bị khoan, máy bơm, ống và ống. Các nhà sản xuất dầu của Hoa Kỳ đã viện dẫn nhiều áp lực chi phí khác nhau như là lực cản đáng kể đối với tăng trưởng trong nhiều cuộc khảo sát ngành gần đây. Những chi phí này rất đáng kể đối với các dự án mới xét đến việc phần lớn đường ống thép được sử dụng cho khoan dầu khí và cơ sở hạ tầng đường ống đều được nhập khẩu.
Cuối cùng, Trump có khả năng sẽ cấp phép đất Liên bang cho việc thăm dò và khai thác. Tuy nhiên, StanChart đã lưu ý rằng khung thời gian cần thiết từ lúc cấp phép, đến thăm dò và thẩm định, và sản xuất cuối cùng là nhiều năm, nghĩa là bất kỳ sản lượng nào từ đất liên bang có thể cũng sẽ phải diễn ra sau khi nhiệm kỳ bốn năm của Trump kết thúc.
Nguồn tin: xangdau.net