Cách đây hơn một năm, chính phủ Hoa Kỳ đã cấm nhập khẩu dầu thô, xăng dầu, và các sản phẩm chưng cất của Nga, than đá, LNG và các sản phẩm than của Nga. Mặc dù Hoa Kỳ gần như không phụ thuộc vào các mặt hàng năng lượng của Nga so với các quốc gia ở châu Âu, nhưng nước này vẫn nhập khẩu một lượng đáng kể dầu thô, xăng dầu và dầu chưa được xử lý, khiến nhiệm vụ thay thế nguồn cung đó trong thời gian ngắn trở thành một thách thức đối với các công ty năng lượng. Quả thật, dấu ấn của Nga tại Hoa Kỳ đã liên tục tăng lên trong những năm trước cuộc xâm lược.
May mắn thay, các nhà sản xuất và nhà máy lọc dầu ở Trung Đông và Mỹ Latinh đã có thể can thiệp và lấp đầy khoảng trống do việc loại bỏ dầu và khí đốt của Nga để lại.
Xuất khẩu năng lượng của Nga sang Hoa Kỳ
Mặt hàng năng lượng lớn nhất mà Mỹ nhập khẩu từ Nga tính theo khối lượng vào năm 2022 là xăng dầu, với lượng nhập khẩu tăng liên tục trong ba năm lên mức kỷ lục 673.000 thùng mỗi ngày.
Mặt hàng nhập khẩu lớn thứ hai là dầu chưa được xử lý. Thay vì mua các sản phẩm thành phẩm như xăng hoặc nhiên liệu máy bay từ Nga, Mỹ chủ yếu nhập khẩu dầu chưa được xử lý, về cơ bản là nguyên liệu thô trung gian được sử dụng bởi các nhà máy lọc dầu và các thành phần được sử dụng để sản xuất các chất lỏng khác. Dầu chưa được xử lý chiếm gần 75% trong số 474.000 thùng các sản phẩm mỗi ngày mà Hoa Kỳ nhập khẩu từ Nga vào năm 2021, giảm từ khoảng 82% trong năm trước đó.
Điều thú vị là Mỹ chỉ nhập khẩu một lượng dầu thô hạn chế của Nga trước lệnh cấm: vào năm 2021, nước này đã mua 80.000 thùng/ngày dầu thô của Nga, giảm đáng kể so với mức đỉnh năm 2010 là 269.000 thùng/ngày. Valero Energy Corp. (NYSE:VLO), Marathon Petroleum Corp. (NYSE:MPC), Phillips 66 (NYSE:PSX), PBF Energy Inc. (NYSE:PBF) và công ty con Monroe Energy của Delta Airlines là những công ty nhập khẩu chính dầu thô của Nga.
Mỹ từng mua một phần dầu của Nga để cung cấp cho các nhà máy lọc dầu vốn cần dầu thô có hàm lượng lưu huỳnh cao hơn để sản xuất nhiên liệu ở công suất cao nhất. Nhiều nhà máy lọc dầu của Hoa Kỳ cũng đã được thiết kế từ nhiều năm trước để sử dụng các loại dầu thô nặng hơn khi nguồn cung trong nước thấp hơn.
Nguồn: Energy Intelligence
Lấp khoảng trống dầu mỏ của Nga
OPEC đã đóng một vai trò quan trọng trong việc lấp khoảng trống bị bỏ lại sau lệnh cấm. Nhập khẩu dầu thô của Mỹ từ OPEC đã tăng 101.000 thùng/ngày từ năm 2021 đến năm 2022, với nguồn cung từ Ả Rập Saudi và Iraq lần lượt tăng 100.000 thùng/ngày và 92.000 thùng/ngày, theo ghi nhận của Energy Intelligence.
Một số nhà sản xuất dầu thô Mỹ Latinh cũng đã có thể giành được thị phần tại Mỹ sau khi Nga rời đi. Brazil, Guyana, Mexico, Colombia và Argentina đều đã tăng cường cung cấp cho Hoa Kỳ. Điều thú vị là một số nhà máy lọc dầu của Hoa Kỳ đã có thể mua được nguồn cung từ các nhà sản xuất mà trước đây họ không có quan hệ kinh doanh. Chẳng hạn, năm ngoái, Monroe Energy đã nhập khẩu dầu thô từ Argentina lần đầu tiên sau khi lệnh cấm có hiệu lực.
Nó cũng giúp ích cho công suất hạ nguồn của Hoa Kỳ vốn đã giảm trong những năm qua với việc đóng cửa nhà máy lọc dầu mới nhất khiến khoảng 1 triệu thùng/ngày bị gián đoạn kể từ giữa năm 2019.
Các quốc gia thành viên OPEC cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thay thế các sản phẩm dầu của Nga. Nhập khẩu dầu chưa được xử lý của Mỹ từ OPEC đã tăng 136.000 thùng/ngày lên 190.000 thùng/ngày từ năm 2021 đến năm 2022, với Ả Rập Saudi và Iraq một lần nữa là những nhà xuất khẩu hàng đầu. Một số thành viên không thuộc OPEC cũng đã bán dầu chưa được xử lý nhiều hơn đáng kể cho Mỹ, với xuất khẩu dầu chưa được xử lý của Canada tăng 15.000 thùng/ngày trong khi xuất khẩu của Brazil tăng 12.000 thùng/ngày. Nhìn chung, Hoa Kỳ đã xuất khẩu 517.000 thùng/ngày các sản phẩm dầu chưa được xử lý vào năm 2022, giảm 42.000 thùng/ngày so với năm trước đó.
Xuất khẩu dầu của Hoa Kỳ tăng vọt
Thật thú vị khi lưu ý rằng xuất khẩu các sản phẩm dầu của Hoa Kỳ cũng tăng vọt vào năm ngoái sau khi nước này trở thành nhà cung cấp năng lượng như lựa chọn duy nhất sau cuộc xâm lược Ukraine của Nga, với tổng lượng xăng dầu xuất khẩu vượt 11 triệu thùng mỗi ngày. Đặc biệt, nhu cầu dầu diesel của Hoa Kỳ vẫn tăng cao ở Châu Âu và Châu Mỹ Latinh. Sự gia tăng xuất khẩu trên diện rộng đã góp phần làm cạn kiệt lượng dự trữ ở Hoa Kỳ và đẩy giá lên cao.
Nhu cầu đối với dầu của Mỹ vẫn mạnh trong năm nay.
Xuất khẩu dầu của Mỹ sang châu Âu đạt mức cao kỷ lục 2,1 triệu thùng/ngày trong tháng 3 nhờ giá dầu giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm. Tuy nhiên, nhu cầu xuất khẩu đã giá các loại dầu thô hàng đầu của Mỹ tăng nhanh. Chẳng hạn, giá trung bình của WTI Midland đã tăng gần 50% so với quý trước đó trong khi WTI tại East Houston đã tăng khoảng 30%.
Nhà phân tích Matt Smith của Kpler đã nói với Reuters rằng xuất khẩu của Hoa Kỳ sẽ vẫn mạnh trong những tháng tới miễn là chênh lệch giữa Brent và WTI vẫn còn rộng.
Nguồn tin: xangdau.net