Quá trình chuyển đổi năng lượng tiếp tục diễn ra nhanh chóng vào năm 2022 bất chấp cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine, sự gián đoạn liên tục đối với chuỗi cung ứng toàn cầu và áp lực lạm phát – tất cả đều dẫn đến giá năng lượng cao trên toàn cầu.
Tuy nhiên, giá cao kéo dài cuối cùng có thể đánh dấu một bước ngoặt - hoặc chứng tỏ là chất xúc tác chính - trong việc chuyển hệ thống năng lượng toàn cầu khỏi sự phụ thuộc vào hydrocarbon và hướng tới các nguồn năng lượng sạch chi phí thấp.
Hydrocacbon phân bố không đồng đều trên khắp thế giới, đòi hỏi các chuỗi cung ứng vốn dễ bị gián đoạn và mang đến những bất ổn tài chính liên quan đến giá cả hàng hóa theo chu kỳ và thường xuyên biến động.
Vào năm 2022, các quốc gia sản xuất hydrocacbon đã thu được doanh thu kỷ lục nhờ giá dầu và khí đốt cao.
Đồng thời, công suất năng lượng tái tạo đã tăng hơn 8%, lần đầu tiên vượt mốc 300 GW, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA). Trong khi đó, tăng trưởng nhu cầu năng lượng điện toàn cầu chậm lại ở mức 2,4%, giảm từ mức 6% vào năm 2021.
Mặc dù quá trình chuyển đổi năng lượng đang tăng tốc hứa hẹn những thách thức ngắn hạn với sự gián đoạn nguồn cung và biến động tài chính, nhưng nó cũng mang đến cho các thị trường mới nổi những cơ hội to lớn nếu họ có thể nắm bắt các công nghệ và nguồn năng lượng sạch sẽ định hình cơ cấu năng lượng trong tương lai.
Các nguồn tài nguyên thay thế
An ninh năng lượng chiếm vị trí trung tâm với sự gián đoạn nguồn cung hydrocarbon của Nga cho châu Âu sau cuộc xâm lược Ukraine. Nga có trữ lượng khí đốt tự nhiên lớn nhất thế giới và trước đây từng chiếm khoảng 40% lượng khí đốt nhập khẩu của châu Âu - và chiếm tới 55% lượng khí đốt của Đức trong những năm gần đây.
Khi các nước châu Âu tranh nhau tìm kiếm các lựa chọn thay thế cho hydrocarbon của Nga, chính sách và các sáng kiến mới đã thúc đẩy việc chuyển sang các nguồn nhập khẩu mới và năng lượng thay thế.
Vào tháng 5, EU đã công bố lệnh cấm nhập khẩu dầu của Nga bằng đường biển, tạo cơ hội cho các thị trường mới nổi xuất khẩu dầu mỏ - cả Tổ chức các nước xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các thành viên ngoài OPEC - tăng sản lượng để đáp ứng nhu cầu.
Khi lệnh cấm được ban hành vào tháng 12, EU nhận thấy mình có nguồn cung dồi dào nhờ những lô hàng tăng lên trong những tháng gần đây từ Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, Trung Đông và Hoa Kỳ.
Các thành viên của OPEC và các quốc gia sản xuất dầu mỏ đồng minh khác, được gọi chung là OPEC+, đã cắt giảm sản lượng vào tháng 9 do nhu cầu toàn cầu giảm, điều mà cho đến nay đã giúp tránh được tình trạng thiếu hụt nguồn cung dầu do lệnh cấm của EU.
Để cắt giảm doanh thu của Nga từ khí đốt tự nhiên, EU cũng đang tranh luận về biện pháp giới hạn giá, nhưng khối này vẫn chưa thống nhất về biện pháp này.
Nỗ lực của EU nhằm hạn chế lượng hydrocacbon của Nga đã khuyến khích các quốc gia ở Mỹ Latinh tập trung phát triển hydro xanh từ các nguồn năng lượng sạch có thể xuất khẩu sang châu Âu và tiêu thụ trong nước.
Vào tháng 6, Argentina đã công bố kế hoạch đầu tư 6 tỷ đô la vào tỉnh Tierra del Fuego - nằm ở cực nam của Nam Mỹ - để phát triển ngành công nghiệp hydro và amoni chạy bằng năng lượng gió và biến quốc gia này thành một nhà xuất khẩu lớn sang châu Âu và châu Á.
Brazil cũng có tham vọng tương tự và đang tìm cách tận dụng vị thế là nhà sản xuất thủy điện lớn thứ hai thế giới, với nguồn tài nguyên gió và mặt trời đáng kể.
Các công ty dầu mỏ quốc gia vùng Vịnh cũng đang tìm cách tăng cường sản xuất hydro. Vào tháng 3, Ả-rập Xê-út đã khởi công xây dựng nhà máy hydro chạy bằng năng lượng mặt trời và gió trị giá 5 tỷ USD tại siêu dự án NEOM, đây sẽ là nhà máy hydro lớn nhất thế giới sau khi hoàn thành, sản xuất 650 tấn mỗi ngày.
Điện và các thị trường mới nổi
Trong tương lai, tốc độ và hiệu quả của quá trình chuyển đổi năng lượng phụ thuộc vào ngành điện, nơi thay thế than bằng năng lượng mặt trời và gió trên đất liền hoặc ngoài khơi - hoặc thậm chí khôi phục các nguồn tái tạo truyền thống nhiều hơn như thủy điện - có thể là một chặng đường dài để đáp ứng nhu cầu điện toàn cầu.
Trong số những nguồn này, năng lượng mặt trời bắt đầu dẫn đầu vào năm 2022, vượt qua gió ở Trung Quốc và Australia. Trong số 300 GW tăng trưởng công suất năng lượng tái tạo vào năm 2022, quang điện mặt trời (PV) chiếm 60%, tương đương 190 GW, của mức tăng, đánh dấu mức tăng trưởng 25% từ năm 2021.
Các nhà nghiên cứu năng lượng mặt trời hàng đầu họp tại Hội nghị Thế giới lần thứ tám về Chuyển đổi Năng lượng Quang điện vào tháng 9 đã dự đoán rằng 1 TW công suất điện mặt trời tiếp theo sẽ mất ít nhất ba năm để lắp đặt.
Nhìn chung, IEA hiện kỳ vọng rằng các yêu cầu cấp bách về an ninh năng lượng sẽ thúc đẩy công suất điện tái tạo toàn cầu tăng thêm 2400 GW từ năm 2022 đến năm 2027, tương đương với toàn bộ công suất điện của Trung Quốc và cao hơn 30% so với dự báo vào năm 2021.
Công suất quang điện mặt trời toàn cầu dự kiến sẽ tăng gấp ba lần trong giai đoạn này, trong khi công suất gió dự kiến sẽ tăng gấp đôi.
Sau đó, vấn đề sẽ là làm thế nào để xử lý tất cả lượng điện sạch đó, vì thế giới cần khoản đầu tư ước tính 14 nghìn tỷ đô la vào lưới điện - bao gồm các đường dây phi tập trung và liên khu vực - vào năm 2050 để bắt kịp với mức tăng năng lượng tái tạo.
Đầu năm nay, Bộ Công Thương Việt Nam đã thông báo sẽ không có dự án năng lượng mặt trời hoặc gió mới nào được kết nối vào lưới điện của Việt Nam vào năm 2022, với lý do là việc tăng hơn 20 GW công suất tái tạo trong ba năm qua đã dẫn đến việc thường xuyên quá tải lưới điện và phát điện tái tạo bị lãng phí.
Công nghệ mới cho nguồn năng lượng sạch truyền thống
Những tiến bộ công nghệ đang giúp hồi sinh các nguồn năng lượng sạch truyền thống được tạo ra trong nước, đáng chú ý nhất là thủy điện.
Hạn hán nghiêm trọng ở Trung Quốc và các nơi khác dẫn đến sản lượng thấp hơn vào năm 2022, nhưng IEA dự báo việc áp dụng thủy điện tích năng với bơm hỗ trợ (PSH) sẽ mở rộng vai trò của thủy điện trong cơ cấu năng lượng toàn cầu. Công nghệ này được dự đoán sẽ tạo ra 65 GW công suất thủy điện bổ sung vào năm 2030, chủ yếu ở châu Á và châu Phi.
Các thỏa thuận thương mại xuyên biên giới mới đã được ký kết vào năm 2022, trong đó Nepal có kế hoạch xây dựng và đưa thủy điện tới Ấn Độ thông qua các dự án Tây Seti và sông Seti, còn Ethiopia đưa 200 MW tới Kenya như một phần của Dự án Đường cao tốc Kenya-Ethiopia.
Đồng thời, khí sinh học và khí mê-tan sinh học dự kiến sẽ thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn xanh ở các thị trường mới nổi.
Được hình thành bằng cách phân hủy chất thải hữu cơ – nông nghiệp, thực phẩm, đô thị hoặc động vật, bao gồm cả phân và nước thải – thông qua một quá trình gọi là phân hủy kỵ khí, khí sinh học có thể cung cấp năng lượng cho lưới điện quốc gia và cung cấp nhiệt cho các hộ gia đình, trong khi chất thải từ quá trình phân hủy kỵ khí có thể được sử dụng làm phân bón.
Mặc dù ngành công nghiệp khí sinh học đã hình thành từ lâu ở Châu Âu và Bắc Mỹ, nhưng nó có nhiều tiềm năng chưa được khám phá ở các thị trường mới nổi, đặc biệt là ở Châu Á, nơi có thể khai thác phụ phẩm cây trồng và phân động vật để giúp khí sinh học chiếm tới 20% nguồn cung khí tự nhiên toàn cầu.
Đơn cử như, Thái Lan đã đưa ra một kế hoạch sử dụng thức ăn chăn nuôi trong biểu giá để đạt được thỏa thuận mua bán điện, với kế hoạch bổ sung 335 MW công suất khí sinh học từ năm 2026 đến năm 2030.
Hỗ trợ tài chính cho khí hậu xanh
Khi các thị trường mới nổi tiếp tục bổ sung năng lực tạo ra năng lượng tái tạo, một số quốc gia giàu có nhất thế giới có thể hỗ trợ tài chính cho quá trình chuyển đổi năng lượng.
Vào năm 2022, trọng tâm của những nỗ lực như vậy là Indonesia, quốc gia phát thải carbon lớn thứ tám thế giới, nơi các quan chức từ một số quốc gia phát triển đã thảo luận về các cách để đẩy nhanh quá trình khử carbon, bao gồm khả năng khởi động thỏa thuận Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng để thu hút các chính phủ, ngân hàng phát triển, nhà tài trợ, các tổ chức tập trung vào khí hậu và khu vực tư nhân tài trợ cho các dự án năng lượng sạch mang lại lợi tức đầu tư hấp dẫn.
Vào năm 2022, cũng có sự gia tăng rõ rệt trong việc phát hành nợ thân thiện với khí hậu ở các thị trường mới nổi, dưới hình thức các quốc gia tận dụng môi trường tự nhiên của họ để tài trợ cho các dự án môi trường dưới dạng gọi là trái phiếu xanh.
Nhiều thị trường mới nổi ở Châu Phi đã chuyển sang tài trợ khí hậu sáng tạo để giải quyết tình trạng thiếu hụt tài chính công và hoan nghênh các đợt phát hành trái phiếu từ các tổ chức quốc tế và khu vực tư nhân để tài trợ cho các dự án liên quan đến khí hậu.
Các quốc gia Nam và Đông Phi hiện đang tìm cách sử dụng trái phiếu xanh để xây dựng “Bức tường xanh vĩ đại”, nhằm bảo vệ các khu vực ven biển và biển chạy từ Somalia đến Nam Phi ở Ấn Độ Dương, cô lập 100 triệu tấn CO2 và tạo ra 1 triệu việc làm xanh đến năm 2030.
Bahamas đã tạo ra một chút thay đổi trong cách tiếp cận này, cung cấp khoản tín dụng carbon xanh trị giá 300 triệu USD từ các khu rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và các hệ sinh thái khác của quốc gia giúp hấp thụ và lưu trữ một lượng carbon đáng kể cho các công ty muốn bù đắp lượng khí thải của chính họ.
Hợp tác toàn cầu
Mặc dù hỗ trợ tài chính là thành phần quan trọng nhất của quá trình chuyển đổi năng lượng, nhưng các nỗ lực ngoại giao quốc tế thông qua các tổ chức và hội nghị đa phương cũng đóng vai trò là chất xúc tác.
Hội nghị về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc COP27 tại Sharm El Sheikh, Ai Cập vào tháng 11 được tổ chức sau một năm chứng kiến sự gia tăng đột biến của thiên tai, đáng chú ý nhất là hạn hán ở Ấn Độ và lũ lụt tàn phá ở Ấn Độ, Pakistan, Nam Phi và Tây Phi.
Một trong những kết quả nổi bật nhất của COP27 là một thỏa thuận về Quỹ tổn thất và thiệt hại để bảo vệ các quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước thảm họa khí hậu. Tuy nhiên, chi tiết về cách thức hoạt động của quỹ này vẫn chưa được công khai.
Có lẽ sự phát triển đáng khích lệ nhất cho quá trình chuyển đổi năng lượng đã xảy ra trong tuần này, với thông báo rằng các nhà khoa học Hoa Kỳ ở California đã đạt được bước đột phá về năng lượng tổng hợp hạt nhân sau nhiều thập kỷ nghiên cứu và đầu tư hàng tỷ đô la.
Vào tháng 2, một dự án tổng hợp hạt nhân khác ở Pháp - được hỗ trợ bởi sự hợp tác giữa 35 quốc gia bao gồm Trung Quốc, các quốc gia thành viên EU, Nga và Mỹ - cũng đạt được bước đột phá lớn về công nghệ.
Mặc dù việc mở rộng quy mô các công nghệ để cung cấp năng lượng nhiệt hạch cho tiêu dùng công cộng sẽ mất nhiều năm nếu không muốn nói là hàng thập kỷ để đạt được – cùng với sự phát triển tương xứng của lưới điện – nhưng không thể phóng đại tầm quan trọng của sự phát triển này đối với quá trình chuyển đổi năng lượng.
Nguồn tin: Oxford Business Group
© Bản tiếng Việt của xangdau.net