Áp lực từ giá xăng, dầu thế giới. Đây là yếu tố không thể kiểm soát. Việt Nam chủ yếu nhập khẩu xăng, dầu, trong khi giá dầu thế giới biến động khó lường và chịu tác động từ những yếu tố bất ổn chính trị, quân sự tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ.
Áp lực lạm phát
Áp lực từ giá xăng, dầu thế giới. Đây là yếu tố không thể kiểm soát. Việt Nam chủ yếu nhập khẩu xăng, dầu, trong khi giá dầu thế giới biến động khó lường và chịu tác động từ những yếu tố bất ổn chính trị, quân sự tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ.
Áp lực từ giá điện. Việc Chính phủ cho phép điều hành giá điện theo cơ chế thị trường kể từ ngày 1/6/2011, với căn cứ xác định điều chỉnh giá là sự biến động từ các yếu tố đầu vào của giá điện với các mức điều chỉnh tăng giảm tương ứng là 5%. Đây là một trong những quyết định khiến giới đầu tư có lý do để tiếp tục lo lắng về vấn đề lạm phát, bởi theo quan sát của chúng tôi bên cạnh việc nhu cầu điện trong nước tiếp tục gia tăng với tốc độ nhanh hơn rất nhiều tốc độ phát triển của các nguồn cung điện, giá đa số các yếu tố đầu vào cho giá điện trong nước đã có những biến động đáng kể so với thời điểm tăng giá lần 1 năm 2011 kể từ ngày 1/3/2011.
Áp lực về chính sách tiền tệ
Thứ nhất, áp lực giảm tỷ trọng cho vay phi sản xuất của các ngân hàng thương mại. Theo Chỉ thị 01 của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng phải thực hiện giảm tốc độ và tỷ trọng cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất (bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng…) tới ngày 30/6/2011 tối đa là 22% và tiếp tục giảm xuống tối đa là 16% tới ngày 31/12/2011. Các tổ chức tín dụng không đạt được những yêu cầu trên sẽ bị áp dụng chế tài tăng gấp 2 tỷ lệ dự trữ bắt buộc so với quy định chung.
Đã có ít nhất hơn 20 ngân hàng thương mại bị Ngân hàng Nhà nước yêu cầu điều chỉnh tỷ lệ cho vay phi sản xuất phù hợp với quy định. Trong số những ngân hàng trên chủ yếu là nhóm ngân hàng nhỏ, có ngân hàng có tỷ trọng cho vay phi sản xuất vẫn trên 30%, cá biệt có trường hợp vẫn ở mức 44%. Rõ ràng, những áp lực chung của hệ thống ngân hàng đối với các khoản cho vay phi sản xuất sẽ khiến dòng vốn cho thị trường chứng khoán ngày càng co hẹp.
Thứ hai, thanh khoản ngân hàng còn hạn chế. Trên thị trường mở thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước vẫn bơm, hút VND một cách hạn chế nhằm hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng thương mại ở từng thời điểm, đồng thời đảm bảo kiểm soát cung tiền chặt chẽ, không tạo áp lực lên lạm phát. Cụ thể, tuần từ 25/4 đến 29/4, Ngân hàng Nhà nước đã hút ròng 14.315 tỷ đồng. Thời điểm cuối tháng 4/2011, lạm phát tiếp tục vượt mức 3%, đã khiến chỉ số giá tiêu dùng 4 tháng đầu năm 2011 của cả nước đạt 9,64%, một con số quá cao so với những dự báo trước đó. Thực tế này cho thấy, những áp lực lên hệ thống ngân hàng thương mại vẫn còn rất lớn.
Thứ ba, lãi suất vẫn duy trì ở mức cao. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trên thị trường vẫn duy trì ở mức cao và chưa có tín hiệu sẽ giảm trong ngắn hạn. Việc các ngân hàng thương mại huy động với lãi suất cao vượt trần 14% khá phổ biến, trong khi lãi suất cho vay duy trì ở mức cao (19 - 26%).
Liên tiếp trong thời gian qua, mức lãi suất chủ chốt được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng mạnh. Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng từ mức 11%/năm lên 14%/năm, lãi suất tái chiết khấu được điều chỉnh tăng từ 7%/năm lên 13%/năm.
Khó khăn của hầu hết doanh nghiệp hiện nay là khả năng tiếp cận nguồn vốn. Mặt bằng lãi suất thời gian gần đây vẫn duy trì ở mức cao và có dấu hiệu tăng. Cụ thể, lãi suất cho vay sản xuất nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu 14,5-17%/năm; cho vay sản xuất - kinh doanh khác 17-20%/năm; đối với lĩnh vực phi sản xuất 20-23%/năm, cá biệt có các khoản cho vay thỏa thuận với lãi suất lên tới hơn 26%. Chừng nào lãi suất chưa có tín hiệu hạ nhiệt trở lại, thì những khó khăn hiện nay của các doanh nghiệp vẫn chưa thể giải quyết.
Công cụ lãi suất đang được sử dụng khá triệt để nhằm hạn chế cung tiền trên thị trường mở, cũng như hút tiền từ lưu thông vào hệ thống ngân hàng thương mại và không ngoại trừ khả năng trong thời gian tới, công cụ lãi suất sẽ còn được sử dụng khi áp lực lạm phát vẫn đứng ở mức cao.
Thứ tư, khả năng thắt chặt thêm chính sách tiền tệ. Vừa qua, tại Hội nghị cao cấp về kinh doanh trong khuôn khổ Hội nghị Thường niên lần thứ 44 của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu đã công bố mục tiêu kiểm soát lạm phát cả năm 2011 ở dưới mức 11,75%. Như vậy, với thực tế lạm phát 4 tháng đầu năm 2011 đã đạt mức 9,64%, để đạt mục tiêu này, trong 8 tháng còn lại của năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng không được tăng quá 2,11%. Rõ ràng, đây là một mục tiêu bất khả thi nếu các chính sách tiền tệ và tài khóa vẫn được giữ nguyên như hiện tại, trừ khi chính sách tiền tệ sẽ còn được thắt chặt hơn nữa trong thời gian tớin
Nguồn tin: Baodautu