Ngày 11-2-2020, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết 55). Đây là những quan điểm, định hướng quan trọng tạo cơ hội cho toàn ngành năng lượng Việt Nam, trong đó có Dầu khí, có những bước phát triển vượt bậc trong thời gian tới.
Một số định hướng quan trọng trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia
Có thể nói quan điểm chỉ đạo quan trọng, xuyên suốt là tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò “nền tảng” và “tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội” của năng lượng. Chính vì vậy, năng lượng được ưu tiên phát triển và cần phải “đi trước một bước”. Từ đó, mục tiêu cụ thể là phải “cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong nước, đáp ứng cho các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030; trong đó, năng lượng sơ cấp đến năm 2030 đạt khoảng 175-195 triệu TOE (tấn dầu quy đổi), đến năm 2045, đạt khoảng 320-350 triệu TOE”. Song song với quan điểm chỉ đạo liên quan đến nguồn cung, quan điểm “sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường” cũng được xem là quốc sách hàng đầu tác động đến nhu cầu năng lượng và hướng tới phát triển bền vững.
Giàn CNTT số 2
Bên cạnh những quan điểm quan trọng, xuyêt suốt nêu trên, định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia cho thấy một số định hướng có tính đột phá đáng chú ý.
Trước hết, đó là chủ trương mở cửa thị trường năng lượng, thông qua việc “xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng hóa hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh”, “khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng”. Trong toàn bộ văn bản Nghị quyết 55 có tới 8 lần sử dụng từ “minh bạch” khi nói về thị trường năng lượng, 3 lần nói về “tư nhân” tham gia thị trường năng lượng, đã nói lên quyết tâm mạnh mẽ trong việc thị trường hóa năng lượng. Đây cũng là những định hướng cụ thể để xây dựng “thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” theo xu hướng hội nhập ngành năng lượng quốc tế. Trong các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, Nghị quyết 55 cũng nêu rõ, “khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia xã hội hóa phát triển năng lượng” và cụ thể là “tham gia đầu tư, phát triển các dự án năng lượng trong và ngoài nước”.
Thứ hai, đó là xanh hóa ngành năng lượng bằng việc “đa dạng hóa các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo”. Xuất phát từ chủ trương này, mục tiêu cụ thể là “tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15-20% vào năm 2030; 25-30% vào năm 2045” và “giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường ở mức 15% vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045”. Trong các giải pháp, ngoài việc nêu rõ “ưu tiên sử dụng năng lượng gió và mặt trời cho phát điện”, Nghị quyết 55 lần đầu tiên đề cập đến “xây dựng định hướng phát triển năng lượng địa nhiệt, sóng biển, thủy triều, hải lưu”, “thử nghiệm sản xuất và khuyến khích sử dụng năng lượng hydro” và “xây dựng và triển khai Đề án tích hợp mô hình kinh tế tuần hoàn vào chiến lược phát triển các doanh nghiệp năng lượng”.
Trong toàn bộ văn bản Nghị quyết 55 có tới 8 lần sử dụng từ “minh bạch” khi nói về thị trường năng lượng, 3 lần nói về “tư nhân” tham gia thị trường năng lượng, đã nói lên quyết tâm mạnh mẽ trong việc thị trường hóa năng lượng.
Thứ ba, hiện đại hóa ngành năng lượng bằng việc phát triển khoa học - công nghệ, đặc biệt ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Nghị quyết 55 nêu rõ “đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành năng lượng; từng bước làm chủ công nghệ hiện đại”. Có tới 5 lần, tính từ “thông minh” được sử dụng trong Nghị quyết để nói về hạ tầng và kỹ thuật năng lượng thể hiện yêu cầu cấp bách trong việc chuyển đổi số này. Từ đó, mục tiêu tổng quát là xây dựng “hạ tầng đồng bộ và thông minh, đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN” và “chủ động sản xuất được một số thiết bị chính trong các phân ngành năng lượng”. Giải pháp cụ thể là, tạo ra “cơ chế liên kết giữa lực lượng nghiên cứu và phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo với các doanh nghiệp”, “khuyến khích các doanh nghiệp năng lượng tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển”, “thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực năng lượng”.
Cũng cần phải nêu thêm là Nghị quyết 55 có nhiều điểm mới trong việc hoàn thiện thể chế phát triển năng lượng Việt Nam. Bên cạnh việc hoàn thiện khung pháp lý, sửa đổi các luật chuyên ngành, “tách bạch chức năng kinh doanh với chức năng quản lý Nhà nước”, “áp dụng các mô hình và thông lệ quản trị tiên tiến” đối với doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực năng lượng, lần đầu tiên Nghị quyết đề cập đến những khái niệm còn mới mẻ đối với Việt Nam, như “hợp đồng mua bán điện trực tiếp giữa nhà sản xuất và khách hàng”, “đánh giá các nguồn lực, tài sản phù hợp với thông lệ quốc tế”, “bán có thời hạn hoặc cho thuê dài hạn đối với các nhà máy điện, kho nhiên liệu, nhà máy lọc dầu”, đề xuất “các quỹ về phát triển năng lượng bền vững”, “thuế carbon”…
Tất cả những điểm xuyết nêu trên chắc chắn chưa thể đầy đủ, bao quát hết ý nghĩa của Nghị quyết 55, nhưng cũng đã cho thấy tư tưởng đổi mới khá toàn diện đối với ngành năng lượng Việt Nam.
Cơ hội phát triển cho Dầu khí Việt Nam
Quán triệt các quan điểm nêu trên cho thấy Dầu khí Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội phát triển.
Thứ nhất, các cơ chế chính sách theo quan điểm nêu trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Dầu khí, cùng các phân ngành năng lượng khác, nắm giữ vai trò nền tảng và tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần vào bảo đảm an ninh nguồn cung, dưới cả hai góc độ, sản xuất, chế biến và nhập khẩu năng lượng.
Giàn khoan PV DRILLING II
Trong các nhiệm vụ, giải pháp, quan điểm xuyên suốt này thể hiện định hướng cho tất cả các lĩnh vực hoạt động dầu khí.
Đối với thăm dò, khai thác: Đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò, gia tăng trữ lượng tại các khu vực tiềm năng, nước sâu, xa bờ; nâng cao hiệu quả khai thác, nâng cao thu hồi dầu khí, tận thu mỏ nhỏ, cận biên; hợp tác một cách chủ động và hiệu quả khi đầu tư ra nước ngoài.
Nghị quyết 55 nêu rõ “đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành năng lượng; từng bước làm chủ công nghệ hiện đại”. Có tới 5 lần, tính từ “thông minh” được sử dụng trong Nghị quyết để nói về hạ tầng và kỹ thuật năng lượng thể hiện yêu cầu cấp bách trong việc chuyển đổi số này.
Đối với chế biến và kinh doanh dầu khí: Thu hút đầu tư vào chế biến sâu; nâng cao hiệu quả, chất lượng sản phẩm; chủ động đáp ứng tối đa nhu cầu trong nước và hướng tới xuất khẩu; bảo đảm dự trữ chiến lược xăng dầu tối thiểu 90 ngày nhập ròng.
Đối với công nghiệp khí: Đầu tư đồng bộ hạ tầng vận chuyển để sử dụng tối đa khí trong nước; ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng nhập khẩu và tiêu thụ LNG, khoảng 8 tỉ m3 vào năm 2030 và 15 tỉ m3 vào năm 2045.
Đối với công nghiệp điện: Ưu tiên sử dụng nguồn khí trong nước; chú trọng phát triển nhanh nhiệt điện khí sử dụng LNG; chuẩn bị năng lực cho việc tham gia phát triển điện gió ngoài khơi, tham gia vào các lĩnh vực năng lượng tái tạo khác theo khả năng và thế mạnh cho phép.
Lĩnh vực dịch vụ kỹ thuật: Chủ động phục vụ nhu cầu của các lĩnh vực trên, nhất là những dự án nhạy cảm, hướng tới nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong phân ngành năng lượng dầu khí.
Để tạo điều kiện cho các định hướng, nhiệm vụ nêu trên được thực thi một cách triệt để, cần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho công nghiệp dầu khí. Hành lang pháp lý cần khuyến khích hơn nữa đầu tư nước ngoài, tách bạch chức năng quản lý Nhà nước với kinh doanh, giảm thủ tục hành chính, xóa bỏ cơ chế xin - cho, trao quyền tự chủ hơn nữa cho sản xuất kinh doanh, luật hóa các nguyên tắc điều hành thị trường…
Thứ hai, định hướng mở cửa thị trường sẽ tạo điều kiện huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước tham gia. Dự báo công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước sẽ mạnh mẽ hơn, đi vào thực chất hơn, số lượng các công ty tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí sẽ tăng lên. Môi trường như vậy sẽ là động lực cho công nghiệp Dầu khí Việt Nam quyết liệt tái cơ cấu theo hướng xã hội hóa đầu tư cho năng lượng và nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp Nhà nước chỉ tập trung vào lĩnh vực cốt lõi, có thế mạnh, kiểm soát hạ tầng mang tính an ninh cho toàn hệ thống. Ngay cả trong lĩnh vực cốt lõi, doanh nghiệp Nhà nước không nhất thiết phải nắm giữ 100% vốn, mà chỉ cần giữ cổ phần chi phối.
Thứ ba, chủ trương xanh hóa ngành năng lượng, trong đó “ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo”, trong bối cảnh khai thác dầu khí đã qua giai đoạn phát triển đỉnh, đặt ra cơ hội cho việc chuyển đổi Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) thành một tập đoàn năng lượng. Được như vậy, Dầu khí có thể tiếp tục giữ vững vai trò quan trọng trong cán cân năng lượng Việt Nam. Với giải pháp “xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi”, dự báo lĩnh vực đầy tiềm năng này sẽ đóng góp rất quan trọng trong cán cân năng lượng, tạo nên một ngành công nghiệp mới trị giá nhiều chục tỉ USD cho GDP của đất nước. Lĩnh vực kỹ thuật dầu khí với năng lực, kinh nghiệm về thiết kế, chế tạo và xây lắp các công trình lớn trên biển, hiểu biết về điều kiện địa chất đáy biển, chắc chắn sẽ có ưu thế trong ngành công nghiệp mới này. Hiện nay, một số đơn vị thành viên của PVN đang tiếp cận cung cấp một số dịch vụ chế tạo, xây lắp cho nhà đầu tư nước ngoài, nhưng PVN có thể xem xét không chỉ cung cấp dịch vụ mà trở thành nhà đầu tư trong lĩnh vực này trong tương lai. Ngành Dầu khí cần đi đầu trong nghiên cứu đánh giá tiềm năng và xây dựng chiến lược khai thác, sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo khác liên quan đến biển, các nguồn năng lượng tái tạo có thể sản xuất tại các cơ sở công nghiệp dầu khí. Một cơ hội khác là xem xét khả năng thu gom CO2 từ các cơ sở chế biến dầu khí và sản xuất điện dùng cho nâng cao thu hồi dầu, hoặc chôn lấp trong các mỏ dầu khí cạn kiệt, như là một giải pháp giảm phát thải của công nghiệp dầu khí đón đầu kỷ nguyên thuế carbon.
Định hướng mở cửa thị trường sẽ tạo điều kiện huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước tham gia. Dự báo công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước sẽ mạnh mẽ hơn, đi vào thực chất hơn, số lượng các công ty tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí sẽ tăng lên.
Với chủ trương hiện đại hóa công nghiệp năng lượng, chúng ta lại đứng trước cơ hội khẳng định và thật sự phát huy vai trò của khoa học - công nghệ. Giải pháp quan trọng là lồng ghép hoạt động nghiên cứu và phát triển quy hoạch năng lượng và chiến lược phát triển PVN đang được xây dựng. Nhằm tăng cường liên kết giữa nghiên cứu và phát triển với các doanh nghiệp, huy động rộng rãi nguồn lực của xã hội cho nghiên cứu, cần mạnh dạn thí điểm triển khai cơ chế doanh nghiệp Nhà nước tham gia, sử dụng sàn khoa học - công nghệ quốc tế, xây dựng Trung tâm Đổi mới sáng tạo Dầu khí.
Hưởng ứng chuyển đổi số trong ngành năng lượng, chúng ta có thể có Chương trình chuyển đổi số cho công nghiệp dầu khí, hướng tới có những mỏ, giàn khoan, nhà máy, đường ống thông minh… trên toàn bộ hạ tầng năng lượng dầu khí.
Một giải pháp quan trọng nữa cần được thực hiện mà Nghị quyết 55 cũng đã đề cập đến, đó là “áp dụng các mô hình và thông lệ quản trị tiên tiến” vào hoạt động sản xuất kinh doanh của PVN và các đơn vị thành viên. Để làm được điều đó, cần đổi mới tích cực hệ thống quản trị theo các tiêu chuẩn và thông lệ tốt mà Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) khuyến cáo, tách bạch chức năng của Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên (HĐQT/HĐTV) với chức trách của Bộ máy điều hành, củng cố bộ máy giúp việc để HĐQT/HĐTV hoàn thành tốt chức năng thiết lập hệ thống và giám sát thực hiện của mình.
Hy vọng những định hướng và giải pháp mà Nghị quyết 55 đưa ra sẽ được các chuyên gia, các nhà quản lý tiếp tục trao đổi, thảo luận, cùng nhau thống nhất những việc phải làm để Dầu khí Việt Nam có thể vững bước vào một giai đoạn phát triển mới, có chiều sâu, thật sự bền vững và tiếp tục đóng góp cho sự phồn vinh của đất nước.
Một số mục tiêu cụ thể của ngành Dầu khí trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
- Cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong nước, đáp ứng cho các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030; trong đó, năng lượng sơ cấp đến năm 2030 đạt khoảng 175-195 triệu TOE (tấn dầu quy đổi), đến năm 2045, đạt khoảng 320-350 triệu TOE; tổng công suất của các nguồn điện đến năm 2030 đạt khoảng 125-130 GW, sản lượng điện đạt khoảng 550-600 tỉ kWh.
- Các cơ sở lọc dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu trong nước; bảo đảm mức dự trữ chiến lược xăng dầu đạt tối thiểu 90 ngày nhập ròng. Đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) khoảng 8 tỉ m3 vào năm 2030 và khoảng 15 tỉ m3 vào năm 2045.
- Đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò nhằm gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác dầu khí tại các khu vực tiềm năng, nước sâu, xa bờ gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển; nâng cao hệ số thu hồi, tận thu các mỏ nhỏ, khối sót cận biên. Rà soát, có chiến lược chủ động và hiệu quả trong hợp tác về tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở nước ngoài. Phát triển công nghiệp khí; ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ khí LNG. Tiếp tục thu hút đầu tư trong lĩnh vực lọc - hóa dầu theo hướng chế biến sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm xăng dầu, chủ động đáp ứng tối đa nhu cầu trong nước và hướng đến xuất khẩu. Đối với dầu khí đá phiến, khí hydrate (băng cháy), tích cực nghiên cứu, đánh giá sâu hơn về địa chất và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật để mở rộng phạm vi khảo sát; sớm triển khai đánh giá tổng thể, đẩy nhanh khai thác thử nghiệm khi điều kiện cho phép.
- Phát triển nhiệt điện khí theo hướng ưu tiên sử dụng nguồn khí trong nước. Chú trọng phát triển nhanh nhiệt điện khí sử dụng LNG, đưa điện khí dần trở thành nguồn cung cấp điện năng quan trọng, hỗ trợ cho điều tiết hệ thống.
Nguồn tin: petrotimes.vn