Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Ngành dầu mỏ Venezuela có thể mất nhiều thập kỷ để phục hồi

 

Có nhiều lo ngại rằng trữ lượng dầu khổng lồ của Venezuela, tổng cộng một tỷ thùng, có thể trở thành một tài sản bị mắc kẹt. Chính sự bùng nổ dầu mỏ đang phát triển mạnh sau Thế chiến thứ nhất của Venezuela là nguyên nhân đưa nước này trở thành quốc gia giàu có nhất ở Mỹ Latinh và là một trong những quốc gia giàu có nhất tính trên đầu người trên toàn cầu. Bây giờ Venezuela lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Việc thúc đẩy chống lại biến đổi khí hậu, giảm khí thải và ô nhiễm dạng hạt đã tạo ra một nỗ lực thế giới để giảm đáng kể hàm lượng lưu huỳnh trong nhiên liệu. Năm 2000, EPA Hoa Kỳ đã hoàn thiện chương trình Tier 2 Gasoline Sulfur, chương trình này đã giảm 90% hàm lượng lưu huỳnh trong xăng. Trong năm 2017, cơ quan này đã giới thiệu chương trình Tier 3 nhằm giảm hàm lượng lưu huỳnh trong xăng xuống tối đa 10 phần triệu (ppm). Các quy định tương tự cũng đã được các nước phát triển khác đưa ra, đặc biệt là để đáp ứng các mục tiêu do Thỏa thuận Paris 2015 thiết lập về chống biến đổi khí hậu. Diễn biến mới nhất là sự ra đời của IMO 2020 do Tổ chức Hàng hải Quốc tế thiết lập hàm lượng lưu huỳnh tối đa cho dầu nhiên liệu là 0,05% theo khối lượng, giảm đáng kể so với nhiên liệu chạy tàu được sử dụng trước đây. Nhiên liệu bunker hay dầu nhiên liệu tàu là cặn từ quá trình chưng cất dầu thô và thường có hàm lượng lưu huỳnh cực cao, dẫn đến khí thải độc hại đáng kể khi đốt cháy. Tiêu chuẩn hàng hải mới nhằm mục đích giảm đáng kể việc phát thải ôxít lưu huỳnh từ tàu và cải thiện chất lượng không khí toàn cầu.

Chính sự thúc đẩy không ngừng này nhằm loại bỏ hoàn toàn lượng khí thải lưu huỳnh độc hại từ nhiên liệu đã làm tăng mạnh nhu cầu đối với dầu thô ngọt nhẹ. Điều này là do việc tinh chế nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh thấp từ dầu ngọt nhẹ rẻ hơn và dễ dàng hơn so với dầu thô chua nặng. Nhu cầu dầu thô ngọt nhẹ từ các nhà máy lọc dầu châu Á, đặc biệt là từ Trung Quốc, đã tăng vọt trong chín tháng đầu năm 2020 khi các nhà máy lọc dầu điều chỉnh hoạt động của họ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với nhiên liệu hàng hải có hàm lượng lưu huỳnh thấp. Điều này làm tăng mạnh khối lượng dầu Brazil được Bắc Kinh nhập khẩu trong nửa đầu năm 2020, một phần để phản ứng với giá dầu thấp hơn rất nhiều do giá dầu giảm mạnh vào tháng 3 năm 2020 nhưng cũng là do IMO 2020. Trung Quốc đã trở thành điểm đến chính cho dầu thô ngọt nhẹ của công ty dầu khí quốc gia Petrobras được sản xuất tại các mỏ tiền muối. Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chiếm khoảng 88% lượng dầu vận chuyển của Brazil.

Nhu cầu đối với dầu thô ngọt nhẹ của quốc gia Mỹ Latinh này vẫn ổn định bất chấp đại dịch COVID-19 và nhu cầu năng lượng toàn cầu giảm do đại dịch gây ra kinh tế. Điều này có thể là do nhu cầu mạnh mẽ đối với dầu thô ngọt nhẹ có hàm lượng lưu huỳnh thấp để tinh chế thành xăng, dầu chạy tàu và các loại nhiên liệu khác có hàm lượng lưu huỳnh thấp. Mặc dù đây điều này có lợi cho những quốc gia sản xuất chủ yếu dầu thô ngọt nhẹ, tức là dầu có tỷ trọng API từ 35 độ trở lên và mức lưu huỳnh dưới 0,42%, chẳng hạn như Brazil, Mỹ và Nigeria. Tuy nhiên, điều đó gây bất lợi cho nhu cầu dầu từ những nước sản xuất dầu thô chua nặng hơn, có tỷ trọng API từ 25 độ trở xuống và mức lưu huỳnh lớn hơn 0,5%, như Canada, Colombia, Ecuador, Ả Rập Xê-út và Venezuela. Nhu cầu ngày càng tăng đối với dầu thô ngọt nhẹ sẽ còn được đáp ứng bởi sự bùng nổ dầu đang diễn ra ở lưu vực Guyana-Suriname, nơi một số phát hiện hydrocarbon lớn đang được khai thác bởi các công ty năng lượng quốc tế trong đó có ExxonMobil.

Sự phát triển này đã tạo ra một mối đe dọa mới đối với Venezuela, có ngành công nghiệp dầu mỏ đang suy thoái nhanh chóng và khả năng sinh lời của trữ lượng dầu khổng lồ, gần 304 tỷ thùng, lớn nhất thế giới. Dự trữ dầu của quốc gia Mỹ Latinh đang lâm vào khủng hoảng chủ yếu bao gồm dầu thô nặng chua và cực nặng. Hầu hết các hỗn hợp được sản xuất ở Venezuela có tỷ trọng API nhỏ hơn 25 độ đến thấp nhất là 8 độ. Hàm lượng lưu huỳnh trung bình cũng khá cao từ 1 đến 2,8 phần trăm, có nghĩa là nó đặc biệt chua. Trong một thế giới đang nỗ lực giảm đáng kể hàm lượng lưu huỳnh trong xăng và các nhiên liệu khác, có nguy cơ về việc trữ lượng dầu khổng lồ của Venezuela sẽ trở thành tài sản bị mắc kẹt. Carbon Tracker Initiative định nghĩa một tài sản mắc kẹt là; "Những tài sản mà tại một thời điểm nào đó trước khi kết thúc vòng đời kinh tế của chúng không còn có thể thu được lợi nhuận kinh tế do những thay đổi liên quan đến quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp."

Điều này đặc biệt xảy ra khi người ta cho rằng cần phải rót vốn lớn, công nghệ và lao động có tay nghề cao để phục hồi ngành công nghiệp dầu mỏ của nước này. Điều đó chỉ đơn giản là sẽ không xảy ra cho đến khi thay đổi chế độ xảy ra và chính phủ độc tài của Maduro bị tước bỏ quyền lực và một chính phủ được quốc tế công nhận được thành lập. Cũng có thể sẽ mất hơn một thập kỷ để ngành công nghiệp dầu khí xây dựng lại về mức giống như trước thảm họa. Các biện pháp trừng phạt nghiêm ngặt của Hoa Kỳ đã đẩy Venezuela ra khỏi thị trường tài chính và năng lượng quốc tế, đồng thời khiến các công ty lớn về năng lượng quốc tế hầu như không thể hoạt động ở đây. Vào cuối tháng 4 năm 2020, Whitehouse đã giao cho Chevron, công ty dầu khí quốc tế cuối cùng còn lại ở Venezuela, cho đến ngày 1 tháng 12 để thu hẹp hoạt động tại quốc gia này. Đây là một đòn giáng lớn đối với Maduro và PDVSA bởi vì nó loại bỏ phao cứu sinh cuối cùng cho một ngành công nghiệp dường như đang rơi vào tình trạng khủng hoảng theo hình xoắn ốc. Những trở ngại đáng kể đó càng được phóng đại bởi lý thuyết về nhu cầu dầu đạt đỉnh. Tập đoàn năng lượng toàn cầu BP, trong số các công ty và tổ chức năng lượng lớn khác bao gồm Cơ quan Năng lượng Quốc tế, tin rằng nhu cầu dầu mỏ sẽ đi ngang vào khoảng năm 2030 và bắt đầu giảm sau thời điểm đó. Điều này cho thấy rằng có một cơ hội hạn chế để Venezuela kiếm lợi từ khối tài sản khổng lồ là trữ lượng dầu mỏ mà họ nắm giữ.

Một khi tài sản bị mắc kẹt, có thể cần phải sửa chữa liên tục đáng kể và các trách nhiệm pháp lý khác cần thiết để ngăn ngừa thiệt hại về môi trường, đặc biệt là trong trường hợp dự trữ dầu mỏ. Đó là chi phí mà một nhà nước gần như thất bại và cận kề phá sản có thể không đủ khả năng chi trả. Sự tan rã của ngành công nghiệp dầu mỏ Venezuela có nghĩa là rất khó để xem Caracas có thể thu lợi như thế nào từ mỏ dầu đó. Sự sụp đổ của cơ sở hạ tầng dầu khí cũ kỹ của Venezuela và những nỗ lực của PDVSA trong việc giữ cho một lượng dầu thô chảy qua đang tạo ra một thảm họa môi trường. Có những tuyên bố về việc dầu đang chảy tự do ở nhiều vùng của đất nước nơi công ty dầu quốc gia đang hoặc đã hoạt động, và bao gồm cả sự cố tràn dầu gây thiệt hại đáng kể cho môi trường địa phương, khiến chi phí sửa chữa và khắc phục tăng cao đến mức khiến cho Caracas gần phá sản không đủ khả năng chi trả. Những vấn đề này sẽ ảnh hưởng đến cả một Venezuela thời hậu Maduro, khiến đất nước nghèo đói sâu sắc này phải dọn dẹp những tàn phá kinh tế và môi trường trong nhiều thập kỷ do chế độ thất bại, tham nhũng gây ra và quyết tâm giữ quyền lực bất kể giá nào. Di sản của Maduro sẽ tồn tại vượt xa sự sụp đổ của ông và trữ lượng dầu khổng lồ đó đang nhanh chóng trở thành một lời nguyền hơn là lợi ích cho một quốc gia đang trên bờ vực sụp đổ.

Nguồn tin: xangdau.net

ĐỌC THÊM