Kể từ giữa những năm 1990, Trung Quốc đã là khách hàng toàn cầu quan trọng của nhiều mặt hàng cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mục đích của sự tăng trưởng này một phần là để tạo ra và mở rộng tầng lớp trung lưu mà nhìn chung dễ dàng duy trì quyền kiểm soát hơn nhiều so với tầng lớp thượng lưu hay tầng lớp lao động khó tính. Nó cũng nhằm thiết lập một đối trọng siêu cường ở Nam bán cầu để cạnh tranh với Mỹ ở Bắc bán cầu và cuối cùng vượt qua nước này để trở thành siêu cường hàng đầu thế giới. Sự tăng trưởng kinh tế vượt trội của Trung Quốc trong nhiều năm đã đẩy giá các mặt hàng chính mà nước này cần lên cao hơn bao giờ hết, gần như một mình họ tạo ra và duy trì siêu chu kỳ hàng hóa trong những năm đó. Sự xuất hiện của Covid ở nước này vào cuối năm 2019 và chính sách 'không Covid' hà khắc được sử dụng để cố gắng ngăn chặn dịch bệnh, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tăng trưởng này và những tham vọng rộng lớn hơn của họ (ít nhất là ở thời điểm hiện tại). Câu hỏi quan trọng đối với thị trường dầu mỏ toàn cầu là điều gì sẽ xảy ra với Trung Quốc vào năm 2024?
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc vào năm 2023 chính thức là “khoảng 5%”, có nghĩa là mục tiêu này gần như chắc chắn sẽ đạt được trên giấy, bất kể thực tế đằng sau những con số đó là gì. Thực tế đó là mức tăng trưởng đạt được ở mức từ 3 đến 5%, tùy thuộc vào cách diễn giải dữ liệu. Trong ít nhất hai quý đầu năm, các số liệu kinh tế quan trọng đều kém - đặc biệt là ngoài lĩnh vực tiêu dùng. Điều này có nghĩa là việc làm ngày càng khó kiếm ở các thành phố của Trung Quốc, nơi giấc mơ về sự tồn tại của tầng lớp trung lưu mới của đất nước đã khiến hàng chục triệu người rời bỏ cuộc sống dựa vào nông nghiệp trước đây kể từ cuối những năm 1990. Những người trẻ tuổi đặc biệt gặp khó khăn và tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên tăng cao đến mức Trung Quốc ngừng công bố sau khi số liệu tháng 6 cho thấy tỷ lệ thất nghiệp này ở mức cao kỷ lục là 21,3%. Các nhân vật chính trị hàng đầu của Trung Quốc – kể cả Chủ tịch Tập Cận Bình – nhận thức sâu sắc về khả năng tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao sẽ dẫn đến các cuộc biểu tình lan rộng. Họ biết rằng ngay trước hàng loạt cuộc nổi dậy bạo lực vào năm 2010 đánh dấu sự khởi đầu của Mùa xuân Ả Rập, tỷ lệ thất nghiệp trung bình của thanh niên ở các quốc gia đó chỉ cao hơn một chút - ở mức 23,4% - so với tỷ lệ hiện nay của Trung Quốc.
Vì vậy, đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc và giới lãnh đạo hiện tại, điều này giờ đây đã trở thành một cuộc khủng hoảng hiện hữu và là một cuộc khủng hoảng mà họ không thể tiếp tục sử dụng phương pháp đã được thử và tin cậy trước đây để vượt qua mọi khó khăn. Phương pháp này về cơ bản liên quan đến việc bơm tiền của chính phủ vào nền kinh tế, thường thông qua các doanh nghiệp nhà nước (SOE) và các tổ chức tài chính để đạt được mức độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng. Người ta hiểu rằng số tiền này có thể được hoàn trả vào một thời điểm nào đó trong tương lai xa, trên thực tế là vào thời điểm mà sự tăng trưởng của tài sản mà số tiền đã mua có thể trả cho khoản nợ phát sinh. Cách đây rất lâu, vào tháng 3 năm 2017, Thủ tướng lúc đó là Lý Khắc Cường đã đưa ra hai thông báo quan trọng tại Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (NPC) thường niên của Trung Quốc ở Bắc Kinh. Đầu tiên là việc nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã cắt giảm mục tiêu tăng trưởng xuống mức thấp nhất trong 27 năm. Thứ hai là: “Những diễn biến cả trong và ngoài Trung Quốc đòi hỏi chúng ta phải sẵn sàng đối mặt với những tình huống phức tạp và nghiêm trọng hơn”.
Tuy nhiên, ngay cả trước khi Thủ tướng Lý Khắc Cường thừa nhận, thị trường tài chính toàn cầu đã nhận thức được rằng Trung Quốc đã có một thời gian biểu hiện ba triệu chứng chính xảy ra trước tất cả các cuộc khủng hoảng tài chính lớn trong ba thập kỷ qua – Khủng hoảng châu Á 1997, Khủng hoảng Nga 1998 và thậm chí cả cuộc Đại khủng hoảng tài chính bắt đầu vào năm 2007. Đó là mức độ đòn bẩy nợ cao, giá tài sản tăng nhanh và tiềm năng tăng trưởng cơ bản suy giảm – nói tóm lại, tất cả các yếu tố đều cần thiết để thổi phồng bong bóng và sau đó sẽ vỡ. Nợ của bất kỳ quốc gia nào về cơ bản có thể được chia thành hai thành phần: trong nước và nước ngoài. Nợ nước ngoài của Trung Quốc đã tăng từ khoảng 52,55 tỷ USD vào năm 1990 (khoảng thời điểm nước này bắt đầu tăng trưởng kinh tế đột biến) lên khoảng 2,4 nghìn tỷ USD vào năm 2020 (khoảng thời điểm Covid bắt đầu). Tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP của Trung Quốc vào thời điểm đó là khoảng 68%. Ngay cả khi tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP này tăng lên sau Covid (lên hơn 80% vào đầu năm 2023), thành phần còn lại - nợ trong nước - mới là nơi chứa đựng những vấn đề nghiêm trọng. Điều này là do từ lâu nợ trong nước đã là một khu vực bị bao vây bởi sự thiếu minh bạch, tình trạng này vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Một cách không chính thức, tính luôn cả khoản nợ này, tỷ lệ tổng nợ trên GDP của Trung Quốc nằm trong khoảng từ 270% đến 300%, tăng từ khoảng 200% chỉ cách đây 5 năm. Ngay cả theo dữ liệu riêng của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC), dư nợ “tổng tài chính xã hội” (đo lường nguồn cung tín dụng tổng thể cho nền kinh tế và bao gồm các hình thức tài trợ ngoại bảng tồn tại bên ngoài hệ thống cho vay ngân hàng thông thường) ở mức 5,98 nghìn tỷ CNY (858 tỷ USD) vào tháng 1 năm 2023.
Một lĩnh vực rõ ràng đáng quan tâm – trong số nhiều lĩnh vực khác ít quan tâm hơn – là lĩnh vực bất động sản, chiếm khoảng 1/3 toàn bộ GDP của Trung Quốc và khoảng 65% tổng tài sản hộ gia đình. Theo Rory Green, nhà kinh tế trưởng về Trung Quốc của GlobalData.TSLombard, phát biểu riêng với OilPrice.com gần đây, ngay cả vào cuối năm 2022, lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc vẫn lớn hơn 30% so với nhu cầu cơ bản và ông ước tính mức tăng trưởng tiềm năng ở nước này đạt 1% trong một kịch bản suy thoái cấu trúc lành tính. Khi các vấn đề ở một trong hai mối lo ngại về bất động sản lớn nhất của Trung Quốc - Country Garden - trở nên công khai hơn (phản ánh những gì đã xảy ra trước đây tại Evergrande, theo phân tích của OilPrice.com vào tháng 12 năm 2021), chính phủ đã đưa ra các biện pháp kích thích mới. Ngày 20 tháng 10 chứng kiến PBOC thực hiện các hợp đồng mua lại đảo ngược trị giá 828 tỷ CNY – gần tương đương với việc bơm thẳng 733 tỷ CNY vào hệ thống tài chính – để giảm thiểu một số tác động kinh tế của sự suy thoái đang diễn ra trong lĩnh vực bất động sản. Cùng ngày, PBOC duy trì lãi suất cho vay thấp kỷ lục đối với lãi suất cho vay cơ bản kỳ hạn một năm (3,45%) và lãi suất 5 năm (4,2%), đồng thời ngụ ý rằng việc nới lỏng tiền tệ nhiều hơn có thể được thực hiện nếu cần thiết. Ngoài ra, vào ngày 24 tháng 10, đợt phát hành trái phiếu chính phủ đặc biệt mới trị giá 1 nghìn tỷ CNY đã được phê duyệt và dự kiến sẽ được đưa vào quý 4 năm nay. Các kênh tin tức của chính phủ Trung Quốc cho biết số tiền thu được từ trái phiếu sẽ được phân bổ cho chính quyền địa phương để giúp thúc đẩy tăng trưởng. Việc điều chỉnh ngân sách sẽ nâng mức trần thâm hụt tài chính chung lên 4,88 nghìn tỷ CNY - tương đương 3,8% GDP, từ mức thâm hụt dự kiến ban đầu là 3%.
Eugenia Victorino, người đứng đầu bộ phận chiến lược châu Á của SEB tại Singapore, nói riêng với OilPrice.com vào tuần trước: “Hạn ngạch trái phiếu bổ sung dự kiến sẽ được tăng trước khi kết thúc năm 2023 và dành cho các dự án cứu trợ thiên tai và khí hậu, nguồn tài chính bổ sung sẽ thúc đẩy hoạt động vào quý 1 năm 2024”. Kể từ khi áp dụng các biện pháp mới này, các dự báo GDP của Trung Quốc đã dần được điều chỉnh theo chiều hướng gia tăng, bất chấp sự suy giảm liên tục trong lĩnh vực bất động sản. IMF gần đây đã nâng dự báo GDP thêm 0,4% cho cả năm 2023 và 2024 - lên lần lượt là 5,4% và 4,6%. Số liệu mới nhất cho thấy sản lượng công nghiệp của Trung Quốc trong tháng 11 tăng với tốc độ nhanh nhất trong gần hai năm, trong khi doanh số bán lẻ tăng ít hơn dự kiến, đây là một dấu hiệu tích cực đối với nhu cầu dầu. Trong phần lớn thời gian của năm nay, mức tăng trưởng như vậy đến từ các hoạt động tiêu dùng, vốn có xu hướng thúc đẩy nhu cầu dầu ở Trung Quốc thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng của khu vực công nghiệp. Với sự thay đổi động lực tăng trưởng này, OPEC dự báo nhu cầu dầu của Trung Quốc đạt trung bình 16,41 triệu thùng/ngày trong nửa đầu năm 2024, tăng 3,2% so với mức của năm 2023, trong khi Cơ quan Năng lượng Quốc tế dự đoán nhu cầu dầu của nước này đạt trung bình 17,1 triệu thùng/ngày trong cả năm, đạt mức tăng trưởng 3,9%.
Nguồn tin: xangdau.net