Chỉ còn chưa đầy một tháng nữa là đến ngày Tổng thống đắc cử Donald Trump bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai tại Phòng Bầu dục, giá dầu đang chật vật để tìm hướng đi, làm gia tăng quan điểm cho rằng thị trường dầu mỏ dường như hài lòng khi chờ ông nhậm chức.
Trump đã nhiều lần tuyên bố rằng ông sẽ thúc đẩy các nhà sản xuất đá phiến tăng sản lượng, ngay cả khi điều đó có nghĩa là các hãng khai thác "tự phá sản".
Nhưng không rõ ông định thực hiện chiến lược này như thế nào bởi vì dầu của Mỹ được sản xuất bởi các công ty độc lập chứ không phải là một công ty dầu khí quốc gia (NOC).
Tháng trước, Chủ tịch Thượng nguồn của Exxon Mobil (NYSE:XOM) Liam Mallon đã bác bỏ quan niệm rằng các nhà sản xuất Mỹ sẽ tăng sản lượng đáng kể trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump. Tuy nhiên, tham vọng khoan của Trump có thể bị cản trở bởi một thách thức thậm chí còn lớn hơn: các mỏ dầu của Mỹ có thể sắp đến giai đoạn cuối cùng.
Theo Goehring & Rozencwajg LLC, một công ty nghiên cứu cơ bản chuyên về đầu tư tài nguyên thiên nhiên, sản lượng đá phiến của Mỹ đang trong giai đoạn đầu của một đợt suy giảm kéo dài, mà sự cạn kiệt chứ không phải động lực thị trường hay sự can thiệp quá mức của cơ quan quản lý, là thủ phạm chính. Các nhà phân tích trước đây đã dự đoán sự tăng trưởng sản xuất bùng nổ do cuộc cách mạng đá phiến của Mỹ gây ra sẽ đi ngang vào cuối năm 2024 hoặc đầu năm 2025. Tuy nhiên, thực tế có thể tệ hơn: Theo dữ liệu của EIA, sản lượng dầu đá phiến đã đạt đỉnh vào tháng 11 năm 2023 và đã giảm khoảng 2% kể từ đó, trong khi sản lượng khí khô đá phiến đạt đỉnh cùng tháng đó và kể từ đó đã giảm 1% tức 1 tỷ feet khối mỗi ngày. Và tình hình sắp trở nên tồi tệ hơn, với mô hình của Goehring & Rozencwajg dự đoán mức giảm thậm chí còn lớn hơn trong tương lai.
Các nhà đầu tư đã so sánh tình hình đang diễn ra với cuộc khủng hoảng dầu mỏ của những năm 1970. Họ lưu ý rằng Tổng thống Nixon đã phản ứng với cuộc khủng hoảng dầu mỏ OPEC đầu tiên vào năm 1973 bằng cách khởi động Dự án Độc lập, nhằm mục đích đảo ngược sự suy giảm sản lượng của Hoa Kỳ thông qua việc bỏ quy định và cấp phép nhanh chóng. Giá dầu tăng vọt từ 3,18 đô la một thùng vào năm 1973 lên 34 đô la một thùng vào năm 1981, gây ra sự bùng nổ trong hoạt động khoan. Do đó, số lượng giàn khoan dầu tại Mỹ đã tăng vọt từ 993 vào năm 1973 lên con số đáng kinh ngạc là 4.500 vào cuối năm 1981. Thật không may, sự gia tăng trong hoạt động khoan không thể chống lại quy luật cạn kiệt tự nhiên: Đến cuối năm 1981, sản lượng dầu thô của Mỹ đã giảm xuống còn 8,5 triệu thùng mỗi ngày, giảm 15% so với thời điểm Nixon khởi động chương trình đầy tham vọng của mình. Các nhà phân tích lưu ý rằng sản lượng dầu thô của Mỹ đã chạm đáy là 5 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2010, ngay cả khi giá dao động quanh mức 100 đô la một thùng. Goehring & Rozencwajg đã dán nhãn hiện tượng này là 'Nghịch lý cạn kiệt' và cảnh báo rằng một mình giá cao hơn sẽ không đủ để chống lại thực tế địa chất. Các nhà phân tích đã chỉ ra câu cách ngôn nổi tiếng của huyền thoại M. King Hubbert, một nhà địa chất của Shell Plc. (NYSE:SHEL): mọi lưu vực hydrocarbon đều là một nguồn tài nguyên hữu hạn. Trên thực tế, sản lượng của bất kỳ mỏ dầu khí nào đều bắt đầu từ con số không, tăng lên khi khai thác tăng tốc và cuối cùng đạt đến giới hạn cho tổng tài nguyên có thể khai thác trong lưu vực.
Càng làm trầm trọng thêm vấn đề, các nhà sản xuất Mỹ sẽ không có động lực từ giá cao dưới chính quyền Trump thứ hai: Một cuộc khảo sát mới từ công ty luật Haynes Boone LLC cho thấy các ngân hàng đang chuẩn bị cho giá dầu giảm xuống dưới 60 đô la một thùng vào giữa nhiệm kỳ mới của Trump.
Tăng cường khai thác dầu
Điều đó nghĩa là, ngày càng có khả năng nhiều công nghệ mới hơn sẽ xuất hiện và thúc đẩy sản xuất dầu khí của Mỹ, giống như cách công nghệ bẻ gãy thủy lực đá phiến đã cách mạng hóa mảng đá phiến của Mỹ hai thập kỷ trước. Nghiên cứu mới cho thấy việc bơm CO2 vào các giếng dầu gần cạn kiệt có thể kéo dài năng suất của chúng trong nhiều thập kỷ. Cố vấn địa chất cấp cao tại Calgary, Menhwei Zhao đã tiến hành một nghiên cứu trên AAPG Bulletin về việc sử dụng CCS trong Thu hồi dầu nâng cao (EOR). Ông đã phân tích hơn 22 năm dữ liệu sản xuất từ vỉa chứa dầu Weyburn Midale ở Saskatchewan, nơi đã được bơm carbon dioxide từ năm 2000, do đó trở thành dự án EOR hoạt động lâu nhất thế giới. Zhao kết luận rằng vỉa chứa sẽ ngừng sản xuất dầu vào năm 2016 nếu không bơm CO2, nhưng "việc thu hồi dầu nâng cao có thể kéo dài tuổi thọ của vỉa chứa này thêm 39 hoặc thậm chí 84 năm nữa". Mặc dù Zhao thừa nhận rằng ông tập trung vào một dự án cụ thể ở Canada, nhưng ông cho biết ông mong đợi sẽ thấy "kết quả tương tự" đối với các dự án CCS quy mô lớn trên toàn thế giới.
Những tuyên bố của Zhao có thể không phải là phóng đại: Dự án EOR CO2 của Đơn vị Denver thuộc Mỏ Wasson đã dẫn đến sản lượng dầu thô tăng gần bảy lần sau khi bơm CO2.
Sản xuất dầu thô tại các mỏ dầu của Mỹ thường gồm ba giai đoạn riêng biệt: khai thác sơ cấp, thứ cấp và thứ ba (hoặc tăng cường). Trong giai đoạn thu hồi sơ cấp, trọng lực, áp suất tự nhiên của vỉa chứa và các kỹ thuật khai thác nhân tạo được sử dụng để dẫn dầu vào giếng khoan. Giai đoạn đầu này thường chỉ thu hồi được khoảng 10 phần trăm dầu ban đầu của một vỉa chứa tại chỗ (OOIP). Các kỹ thuật thu hồi thứ cấp được sử dụng để kéo dài tuổi thọ khai thác của một mỏ dầu, thường là bằng cách phun nước hoặc khí để đẩy dầu ra và đưa dầu vào giếng khoan khai thác, thường thu hồi được 20 đến 40 phần trăm OOIP.
Tuy nhiên, phần lớn dầu dễ khai thác đã được lấy từ các mỏ dầu của Mỹ buộc các nhà sản xuất phải chuyển sang một số kỹ thuật thu hồi dầu bậc ba hoặc tăng cường (EOR). Các công nghệ EOR mang lại triển vọng cuối cùng là sản xuất được 30 đến 60 phần trăm hoặc hơn OOIP của một vỉa chứa.
Ba loại EOR chính đã được phát hiện là thành công về mặt thương mại: phun khí, phun hóa chất và thu hồi nhiệt. Phun khí là công nghệ EOR phổ biến nhất ở Mỹ, chiếm gần 60 phần trăm sản lượng EOR trong cả nước. Bơm khí sử dụng các loại khí như CO2, khí tự nhiên hoặc nitơ nở ra trong một vỉa chứa để đẩy thêm dầu vào giếng khai thác trong khi các loại khí khác hòa tan trong dầu và giúp giảm độ nhớt và cải thiện lưu lượng của dầu. Việc bơm CO2 đã được sử dụng thành công trên khắp lưu vực Permian của Tây Texas và miền đông New Mexico, cũng như ở Kansas, Mississippi, Wyoming, Oklahoma, Colorado, Utah, Montana, Alaska và Pennsylvania.
Bộ Năng lượng Hoa Kỳ hiện đang nghiên cứu các kỹ thuật mới mà có thể cải thiện đáng kể hiệu suất kinh tế và mở rộng khả năng áp dụng bơm CO2 vào một nhóm vỉa chứa rộng hơn. Bộ Năng lượng ước tính CO2-EOR thế hệ tiếp theo có tiềm năng sản xuất hơn 60 tỷ thùng dầu mà nếu không sẽ bị mắc kẹt trong đá. Mất khoảng 13 năm để các nhà sản xuất Mỹ khai thác khối lượng dầu đó ở mức hiện tại là khoảng 13 triệu thùng mỗi ngày.
Nguồn tin: xangdau.net