Đối với những người ủng hộ lệnh trừng phạt ở phương Tây, sự sụt giảm mạnh về giá trị của đồng Rúp trong năm nay là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy các hình phạt kinh tế áp đặt lên Nga vì việc nước này xâm lược Ukraine đang phát huy tác dụng.
Họ nói rằng các nước thuộc Nhóm Bảy (G7) nên hành động ngay lập tức khi có cơ hội và hạ trần giá dầu thô xuất khẩu của Nga, hiện ở mức 60 USD. Mục tiêu: Siết chặt nguồn thu của Điện Kremlin và buộc Tổng thống Vladimir Putin phải lựa chọn giữa ổn định kinh tế và chi tiêu quân sự.
Ngân hàng trung ương Nga đã tăng lãi suất thêm 3,5 điểm phần trăm tại một cuộc họp khẩn cấp hồi đầu tháng này sau khi giá trị đồng rúp giảm xuống dưới 1 xu Mỹ, giảm 30% kể từ đầu năm khi cuộc chiến ở Ukraine kéo dài không hồi kết.
Robin Brooks, nhà kinh tế trưởng tại Viện Tài chính Quốc tế có trụ sở tại Washington, một hiệp hội ngành tài chính, cho biết trong một bài đăng ngày 15 tháng 8 trên mạng xã hội: "Nga cần tăng lãi suất khẩn cấp để ổn định đồng Rúp. Chúng tôi có khả năng mang đến cho Putin cuộc khủng hoảng tài chính mà ông ấy đáng phải gánh chịu. Chúng tôi chỉ cần hạ trần giá G7".
Aleksandra Prokopenko, cựu nhà phân tích của ngân hàng trung ương Nga, tán thành quan điểm đó, cho rằng các biện pháp trừng phạt đang phát huy hiệu quả và việc hạ giá dầu mà Moscow bán được - nguồn tiền chính của nước này - sẽ khiến nền kinh tế của Putin rơi vào tình thế khó khăn.
Prokopenko, hiện là học giả không thường trú tại Trung tâm Carnegie Russia Eurasia có trụ sở tại Berlin, cho biết quyết tâm của Tổng thống Nga thúc đẩy cuộc xâm lược thất bại vào Ukraine bằng mọi giá đang "đặt nền kinh tế vào tình trạng ngày càng không bền vững".
Để đẩy nó đến bờ vực sụp đổ "phương Tây nên tiếp tục theo đuổi các nguồn thu của Điện Kremlin, bao gồm việc hạ trần giá dầu, áp dụng các biện pháp tương tự đối với các mặt hàng xuất khẩu khác của Nga, và bịt các lỗ hổng trong lệnh trừng phạt", bà viết trong chuyên mục quan điểm của Bloomberg vào ngày 17 tháng 8.
Tuy nhiên, một số chuyên gia dầu mỏ cho rằng không nên quá vội.
Các nhà phân tích thận trọng cảnh báo rằng việc giảm thêm trần giá của G7 sẽ chỉ làm tăng thêm lo ngại về nguồn cung dầu toàn cầu vào thời điểm nhu cầu kỷ lục và đẩy giá dầu thô lên cao, gây tổn hại cho chính những quốc gia đó - và có thể không gây tổn hại nhiều đến doanh thu của Nga.
“Nếu ngày mai G7 đến và nói rằng giá trần là 50 USD, rất có thể bạn sẽ thấy giá dầu tăng thêm. Phản ứng ngay lập tức trước các biện pháp trừng phạt cứng rắn hơn luôn là giá dầu tăng vì sợ bị gián đoạn, Jorge Leon, nhà phân tích tại Rystad Energy có trụ sở tại Oslo, nói với RFE/RL.
Ông nói: “Tôi nghĩ rằng cách tốt nhất của G7 là không làm rung chuyển con thuyền”.
Các chuyên gia cho biết, mối lo ngại đó được chia sẻ bởi nhiều nhà lãnh đạo G7, những người không muốn thấy giá năng lượng tăng cao khi họ phải đối mặt với tình trạng lạm phát tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ. Sự gia tăng chi phí sinh hoạt được nhiều người coi là một trong những mối đe dọa tiềm tàng lớn nhất đối với nỗ lực tái tranh cử của Tổng thống Joe Biden vào năm tới.
Cuộc tranh luận về tính hiệu quả của giới hạn giá đã diễn ra kể từ trước khi nó được áp dụng vào tháng 12 năm 2022. Tám tháng sau, vẫn chưa có sự đồng thuận về mức độ hiệu quả của nó.
Đó là bởi vì mức giá cuối cùng mà Nga bán dầu của mình cũng bị ảnh hưởng bởi lệnh cấm vận đối với các chuyến hàng bằng đường biển tới phương Tây và việc cắt giảm sản lượng của OPEC+, trong đó có Nga và một số quốc gia khác không phải là thành viên OPEC.
Khi giới hạn giá có hiệu lực cùng với lệnh cấm vận đối với dầu thô vận chuyển bằng đường biển, dầu Urals của Nga đã được giao dịch dưới 60 USD/thùng và ở mức thấp hơn nhiều so với dầu thô Brent, chuẩn của châu Âu.
G7 nhằm mục đích hạn chế doanh thu của Nga trong khi vẫn duy trì lượng dầu của Nga chảy ra thị trường toàn cầu. Họ từ chối lời kêu gọi áp trần giá từ 30 đến 40 USD vì lo ngại rằng Nga sẽ cắt giảm xuất khẩu, điều này có khả năng gây ra sự tàn phá kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Nga là nước xuất khẩu dầu lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Ả Rập Saudi.
Chính sách giới hạn giá cấm các trung gian phương Tây, chẳng hạn như các công ty vận tải biển và công ty bảo hiểm, cung cấp dịch vụ của họ nếu dầu thô của Nga được bán trên 60 USD/thùng. Các bên trung gian phương Tây từ trước tới nay thường thống trị trong những ngành dịch vụ như vậy.
Để khắc phục những hạn chế, Nga đã cố gắng thiết lập cơ sở hạ tầng song song, thu mua hàng trăm tàu chở dầu cũ và dành 9 tỷ USD để tái bảo hiểm tàu. Các chuyên gia cho biết, Nga cũng đã dùng đến cách ngụy trang mức giá mà họ nhận được bằng cách thổi phồng chi phí vận chuyển.
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, tháng trước, dầu thô của Nga có giá trung bình 64,31 USD, vượt giá trần và nâng doanh thu xuất khẩu dầu lên mức cao nhất trong 8 tháng. Dầu của Nga vẫn rẻ hơn Brent nhưng mức chênh lệch đã thu hẹp từ 35 USD xuống còn khoảng 10 USD, một dấu hiệu khác cho thấy mức trần đang mất dần sức mạnh.
Ben Cahill, chuyên gia năng lượng tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế có trụ sở tại Washington, cho biết tác động của các biện pháp trừng phạt có xu hướng suy yếu theo thời gian khi những cá nhân xảo quyệt tìm cách lách chúng. Ông nói với RFE/RL: “Câu chuyện về các biện pháp trừng phạt năng lượng trong 10 đến 15 năm qua là thị trường khá thông minh trong việc né tránh chúng. Và chúng tồn tại càng lâu thì chúng ta càng thấy nhiều lỗ hổng, đặc biệt là khi thị trường thắt chặt nguồn cung”.
Thứ trưởng Tài chính Mỹ Wally Adeyemo cho biết vào tháng 6, trước khi giá dầu toàn cầu tăng vọt gần đây, rằng mức trần giá đang phát huy tác dụng. Ông nói, số tiền mà Nga dành để tái bảo hiểm là số tiền mà Điện Kremlin không thể sử dụng để "đầu tư vào xe tăng và các loại vũ khí khác cho cuộc chiến bất hợp pháp ở Ukraine".
Các chuyên gia tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson báo cáo vào tháng 7 rằng giới hạn giá đã tác động đến doanh thu xuất khẩu dầu của Nga ít hơn so với lệnh cấm vận, đồng thời cho rằng mức trần 60 USD là quá cao để mang lại hiệu quả trong nhiều trường hợp và việc thực thi còn thiếu.
Lệnh cấm vận của châu Âu đối với dầu thô xuất bằng đường biển của Nga đã buộc Moscow phải vận chuyển dầu từ các cảng trên Biển Baltic và Biển Đen tới Trung Quốc và Ấn Độ với mức chiết khấu đáng kể.
Các chuyên gia của Viện Peterson cho biết: “Lệnh cấm vận của EU đã khiến giá giảm quá nhiều đến nỗi mức trần 60 USD/thùng không còn phù hợp nữa”.
Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng việc hạ trần giá có thể vẫn không đạt được nhiều kết quả.
Cahill nói: “Hiện có rất nhiều lời kêu gọi hạ mức trần giá, cho rằng chính sách này đang phát huy tác dụng và chúng ta nên cắt giảm mức trần giá để ép Nga nhiều hơn. Nhưng anh đặt giới hạn giá càng thấp thì khả năng trốn tránh càng nhiều”.
Ông nói rằng với mức giá thấp hơn 20 USD so với dầu Brent, sẽ có quá nhiều động lực để những người phản đối lệnh trừng phạt can thiệp. Ông nói: “Tôi nghĩ việc thực thi sẽ trở nên thực sự khó khăn nếu giá dầu xuống dưới 60 USD/thùng, đặc biệt nếu giá dầu toàn cầu tăng”.
Craig Kennedy, chuyên gia dầu mỏ Nga và cộng sự tại Trung tâm Davis của Đại học Harvard, nói rằng quyền lực của giới hạn giá của G7 đang "được thử thách" khi giá dầu của Nga vượt 60 USD và nếu các biện pháp thực thi lệnh trừng phạt không được thực hiện sớm, chính sách này "có nguy cơ bị dỡ bỏ."
Ông đề nghị G7 và Liên minh châu Âu lập ra một "danh sách trắng" gồm các công ty và nhà môi giới được phép cung cấp thông tin về giá để để giảm bớt sự trốn tránh của Nga. Theo đề xuất của ông, các tàu chở dầu thuộc sở hữu hoặc được bảo hiểm của G7 sẽ cần nhận được chứng thực giá từ một công ty nằm trong danh sách trắng để vận chuyển dầu của Nga.
Ông cũng gợi ý rằng EU và G7 - Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức và Ý – nên cấm các công ty của họ bán tàu chở dầu cho Nga hoặc những người mua không được tiết lộ danh tính.
Chris Weafer, chuyên gia năng lượng và người sáng lập Macro-Advisory, một công ty tư vấn tập trung vào các quốc gia thuộc Liên Xô cũ, cho biết giá dầu của Nga sẽ đi về đâu cũng sẽ phụ thuộc phần lớn vào Ả Rập Saudi và những người mua châu Á.
Ông nói với RFE/RL: “Cách duy nhất để mức trần giá hiện tại hoặc mức giá thấp hơn có tác dụng là liệu Ả Rập Saudi có tăng cường sản xuất hay người mua châu Á có từ chối trả nhiều hơn mức trần hay không”.
Không rõ liệu một trong hai điều đó có xảy ra hay không. Ngoại trừ Nhật Bản, các nước châu Á không tuân theo giới hạn giá của G7.
Ả Rập Saudi đã cắt giảm sản lượng 1 triệu thùng/ngày trong tháng 7 để hỗ trợ giá, giúp nâng giá dầu thô của Nga lên trên mức trần, và sau đó kéo dài thời gian cắt giảm đến tháng 9. Trong khi chính quyền Biden đã thúc ép Ả Rập Saudi duy trì sản lượng ở mức cao để giúp hạ nhiệt lạm phát toàn cầu.
“Chừng nào người mua ở Trung Quốc, Ấn Độ và những nước khác ở châu Á còn nhập được dầu với giá thấp, họ sẽ không sẵn lòng từ chối dầu có giá tương đối rẻ hơn của Nga – bằng cách yêu cầu mức chiết khấu thậm chí còn cao hơn để đưa giá xuống dưới mức trần", Weafer bình luận.
Nguồn tin: RFE/RL
© Bản tiếng Việt của xangdau.net