Mặc dù trong tháng 7, xuất khẩu dầu thô tăng 40,9% nhưng tính chung 7 tháng năm 2018, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu dầu thô đều giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước, đạt 1,3 tỷ USD, kim ngạch giảm 25,3%.
Ảnh minh họa.
Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 7/2018 ước tính đạt 19,50 tỷ USD, giảm 1,7% so với tháng trước; trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 5,85 tỷ USD, giảm 2,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,65 tỷ USD, giảm 1,2%.
Một số mặt hàng xuất khẩu trong tháng 7 có kim ngạch giảm: Điện tử máy tính và linh kiện giảm 7,5%; sắt thép giảm 8,7%; hóa chất giảm 9,2%; xăng dầu giảm 14,4%; gạo giảm 18,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 19%.
Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng: Than đá tăng 59,4%; dầu thô tăng 40,9%; hàng dệt may tăng 5,6%; điện thoại và linh kiện tăng 5,4%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 7 tăng 10,2%; trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 10%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 10,3%.
Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Hàng dệt may tăng 18,3%; điện thoại và linh kiện tăng 14%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 10,2%.
Tính chung 7 tháng năm 2018, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 133,69 tỷ USD, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm 2017; trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 39,03 tỷ USD, tăng 18,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 94,66 tỷ USD (chiếm 70,8% tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng 14%.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 26,1 tỷ USD, tăng 15,8%; hàng dệt may đạt 16,5 tỷ USD, tăng 16,2%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 15,7 tỷ USD, tăng 14,8%; giày dép đạt 9,1 tỷ USD, tăng 8,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 9 tỷ USD, tăng 27,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,8 tỷ USD, tăng 13,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4,6 tỷ USD, tăng 15,2%.
Bên cạnh đó, một số mặt hàng nông sản, thủy sản cũng tăng khá: Thủy sản đạt 4,7 tỷ USD, tăng 8,1%; rau quả đạt 2,3 tỷ USD, tăng 14,6%; gạo đạt 2 tỷ USD, tăng 31,5% (lượng tăng 14,2%); hạt điều đạt 2 tỷ USD, tăng 6,5% (lượng tăng 9,4%).
“Về dầu thô tính chung 7 tháng tiếp tục giảm mạnh về cả lượng và kim ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ năm trước: Kim ngạch xuất khẩu dầu thô đạt 1,3 tỷ USD, giảm 25,3% (lượng giảm 46,4%)”, Tổng cục Thống kê cho biết.
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 7 tháng, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 25,5 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó điện thoại và linh kiện tăng 18,4%; hàng dệt may tăng 11,5%.
Tiếp đến là EU đạt 24,2 tỷ USD, tăng 12,9%; trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 20,1%; điện thoại và linh kiện tăng 19,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 18,8%.
Trung Quốc đạt 19,5 tỷ USD, tăng 24,7%; trong đó điện thoại và linh kiện tăng 193,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 26,7%; rau quả tăng 10,8%.
Thị trường ASEAN đạt 14,2 tỷ USD, tăng 16,2%, trong đó gạo tăng 199,2%; sắt thép tăng 51,9%; hàng dệt may tăng 34,6%.
Nhật Bản đạt 10,4 tỷ USD, tăng 10,2%, trong đó hàng dệt may tăng 22,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 3,4%.
Hàn Quốc đạt 10,2 tỷ USD, tăng 31,9%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 59,2%; điện thoại và linh kiện tăng 28%; hàng dệt may tăng 21,8%.
Nguồn tin: bizlive.vn