Khi giá dầu thô xuống thấp, các công ty vận hành giàn khoan dầu khí ngoài khơi và các nhà sản xuất dầu phải đối mặt với làn sóng phá sản thứ hai chỉ trong 4 năm.
Hoạt động khai thác và dịch vụ dầu khí ngoài khơi đã ghi nhận kết quả tồi tệ nhất khi cổ phiếu của 10 công ty hàng đầu giảm 77% kể từ đầu năm 2020.
Một giàn khoan ngoài khơi của Mỹ
4 trên tổng số 7 công ty khoan và cung cấp dịch vụ dầu khí ngoài khơi lớn nhất hiện nay là Diamond Offshore Drilling Inc, Noble Corp, Seadrill Ltd và Valaris Plc đều phải tìm kiếm giải pháp về thanh khoản với các chủ nợ hoặc bắt đầu các cuộc đàm phán tái cơ cấu nợ do đứng trước bờ vực phá sản. 2 công ty khác cũng đang loay hoay tìm kiếm các khoản vay.
Ông Simen Lieungh, CEO Odfjell Drilling có trụ sở tại Na Uy, nhận định: “Sự hỗn loạn của ngành công nghiệp khai thác dầu khí ngoài khơi sẽ thay đổi mọi thứ theo nhiều cách”.
Trước đó, hàng loạt mỏ dầu khí ngoài khơi có trữ lượng khổng lồ được phát hiện tại khu vực Nam Mỹ và châu Phi đã khơi dậy mối quan tâm của các “ông lớn” dầu khí đối với các dự án ở những vùng nước sâu, góp phần tạo nên sự bùng nổ của các hợp đồng khai thác dầu khí ngoài khơi cách đây 2 năm.
Đến đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 bùng phát đã “thổi bay” nhu cầu tiêu thụ năng lượng và đẩy giá dầu giảm xuống dưới 20 USD/thùng vào tháng 4. Trong tháng 6, số lượng giàn khoan vận hành giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 1986 khi các công ty dầu khí hủy bỏ hoặc trì hoãn hợp đồng.
Jorn Madsen - CEO Maersk Drilling - nói rằng, do các “ông lớn” dầu mỏ năm nay dự kiến sẽ giảm đầu tư 30-50% để bảo toàn dòng tiền và chi trả cổ tức, nên các nhà thầu khai thác không thể dựa vào những công ty này.
Vài năm tới, triển vọng phục hồi dầu khí ngoài khơi rất mờ nhạt. Nhiều nhà sản xuất đang bắt đầu rút khỏi các dự án mà giá dầu phải ở mức 60 USD/thùng mới có lãi. Một số “gã khổng lồ” như Chevron, Exxon Mobil, Petronas và Royal Dutch Shell đã dừng nhiều hợp đồng khoan dầu vào đầu năm nay để tiết kiệm chi phí.
Thực tế cho thấy, việc đột ngột dừng hoạt động thăm dò các giếng dầu mới ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà thầu bởi họ đã chi hàng tỉ USD cho các đội tàu.
Công ty Seadrill, từng phải đối mặt với nguy cơ phá sản vào năm 2017 sau một đợt khủng hoảng giá dầu, đã áp dụng mô hình chia sẻ chi phí để có thể vượt qua khó khăn. Seadrill khi đó đã thành lập liên doanh với Công ty Dầu khí Qatar và Tập đoàn Sonangol, tập trung vào các mỏ dầu có tuổi thọ cao để giảm rủi ro cho các nhà khai thác ngoài khơi. Seadrill đã cung cấp đội tàu và tăng khả năng tiếp cận các thị trường, dự kiến có thể tăng trưởng đáng kể trong tương lai gần.
Để tồn tại, các nhà khai thác dầu khí ngoài khơi cần tự tìm cho mình hướng đi phù hợp.
Nguồn tin: petrotimes.vn