Chỉ còn hai tháng nữa, vào ngày 25-2-2009, dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất sẽ được vận hành thương mại.
Vấn đề được nhiều người quan tâm là hiệu quả kinh tế của dự án lọc dầu đầu tiên của Việt Nam với tổng vốn đầu tư 2,5 tỉ đô la Mỹ sẽ ra sao trong bối cảnh giá dầu thế giới liên tục giảm mạnh.
Ông Đinh Văn Ngọc, Phó tổng giám đốc Công ty TNHH một thành viên Lọc hóa dầu Bình Sơn, đơn vị sẽ quản lý vận hành nhà máy, trao đổi với báo giới xung quanh vấn đề này.
Dường như một số công đoạn xây dựng nhà máy đang gặp khó khăn do điều kiện thời tiết?
Từ tháng 11 đến tháng 3 hàng năm tại Dung Quất thời tiết không thuận lợi cho việc thi công trên công trường và trên biển do sóng lớn, có lúc giật cấp 6, 7, biển động mạnh. Vì vậy chúng tôi và nhà thầu phải phối hợp chặt chẽ hơn, lập kế hoạch chi tiết hơn. Đến giữa tháng 12-2008, tiến độ xây lắp của dự án đạt 97,98% và tiến độ công tác chạy thử đạt 45% và tôi tin đến ngày 25-2-2009, nhà máy sẽ sản xuất ra các sản phẩm xăng dầu thương mại đầu tiên của Việt Nam.
Nguồn nguyên liệu cho nhà máy đã nhập đủ chưa, thưa ông?
- Sắp tới sẽ nhập 600 tấn LPG (khí hóa lỏng) đầu tiên và một phần sẽ dùng để đốt đuốc cho nhà máy. Ngọn đuốc này cao 115 mét và đối với các nhà máy lọc dầu thì khởi động đốt đuốc là thời điểm rất quan trọng sau mốc nhập dầu thô, khẳng định rằng nhà máy đã hoàn thiện về cơ khí và chuyển sang giai đoạn sẵn sàng nhập hydrocacbon, tiếp nhận nguyên liệu để chế biến.
Hiện chúng tôi đã chứa gần đầy hai bể chứa dầu thô (80.000 tấn) sau đợt nhập đầu tiên ngày 5-12 vừa qua. Lượng dầu đó phục vụ cho giai đoạn chạy thử nghiệm thu và nhà máy sẽ nhập lô dầu thô thứ hai, khoảng 600.000 thùng vào cuối tháng 1 hoặc tuần đầu của tháng 2-2009, như vậy tháng 2 và 3-2009 sẽ có đủ nguồn dầu thô cho nhà máy.
Trước mắt, nguồn nguyên liệu cho nhà máy lọc dầu do mỏ Bạch Hổ cung cấp nhưng mỏ này đang cạn dần, vậy đâu là nguồn nguyên liệu lâu dài cho nhà máy?
- Khả năng cung cấp dầu thô của mỏ Bạch Hổ cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đến đâu và kéo dài trong bao lâu đã được công ty lên kế hoạch. Ngoài mỏ Bạch Hổ, Việt Nam còn nhiều nguồn dầu khác đang được đưa vào khai thác như các mỏ Cá Ngừ Vàng, Rạng Đông, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng... và năm nay đã đưa vào khai thác bốn mỏ mới. Nhà máy có thể trộn các loại dầu ngọt khác của Việt Nam với dầu Bạch Hổ để đảm bảo cung cấp dầu thô trong trung hạn.
Về dài hạn, chúng tôi đang đàm phán với các nhà cung cấp dầu thô như BP, Shell... về hợp đồng mua dầu dài hạn từ nước ngoài để pha trộn với dầu Bạch Hổ và dầu ngọt Việt Nam và cung cấp lâu dài cho nhà máy.
Chính phủ và tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã đồng ý về nguyên tắc cho phép Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn nghiên cứu sơ bộ và đề xuất phương án nâng cấp nhà máy, trong đó có việc chế biến dầu hỗn hợp. Hầu hết các phân xưởng của nhà máy được thiết kế để chế biến dầu hỗn hợp, tức là pha trộn giữa dầu ngọt và dầu chua theo tỷ lệ nhất định. Sau này một lượng đáng kể dầu chua sẽ được nhập từ Dubai, Kuwait, Saudi Arabia... để đảm bảo nguồn cung lâu dài.
- Vậy thì dự kiến năm 2009 nhà máy có thể đáp ứng nhu cầu xăng dầu nội địa đến đâu?
- Nhà máy vận hành liên tục theo công suất và dự kiến trong năm 2009 sẽ đạt khoảng 60-65% công suất thiết kế, tức là sẽ đưa vào chế biến khoảng 4 triệu tấn dầu thô. Thời điểm 25-2-2009 khi nhà máy vận hành thương mại thì công suất sẽ ở mức tối thiểu, khoảng 50% và từ tháng 8 đến cuối năm 2009 dự tính có khả năng nâng công suất nhà máy lên 100%. Với công suất nguyên liệu chế biến 6,5 triệu tấn dầu thô/năm sẽ đưa ra thị trường 6,3 triệu tấn sản phẩm/năm, bao gồm chín loại sản phẩm.
Nhà máy được thiết kế theo nhiều chế độ vận hành linh hoạt, nếu thị trường cần nhiều dầu diesel và chế biến dầu diesel hiệu quả kinh tế cao hơn thì chúng tôi sẽ tối đa hóa sản xuất loại dầu này. Nếu nhu cầu về xăng cao hơn và chế độ sản xuất xăng cho hiệu quả kinh tế cao hơn thì chuyển chế độ vận hành từ tối đa dầu diesel sang tối đa xăng.
- Tại sao phải đặt vấn đề nâng công suất nhà máy lúc này? Có phải vì thiết kế ban đầu không dự báo đúng nhu cầu thị trường trong dài hạn?
- Bất cứ nhà máy lọc hóa dầu nào trong giai đoạn thiết kế đều phải tính đến việc mở rộng trong tương lai vì đó là đặc thù của nó. Đối với Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, tiêu chuẩn thiết kế là theo tiêu chuẩn thế giới và công ty đã dành sẵn một diện tích đất cho việc mở rộng sau này.
Thiết kế ban đầu của nhà máy từ những năm 1998-2000, đến năm 2003 chỉnh sửa lại và đã tính toán nhu cầu thị trường và sự phát triển của đất nước, tuy nhiên không thể hoàn toàn chính xác, ví dụ dự báo về tăng trưởng GDP là bao nhiêu phần trăm/năm, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước tăng như thế nào, và không thể ngờ giá dầu thế giới hồi đầu năm lên tới 147 đô la Mỹ/thùng thì nay xuống dưới 50 đô la, thậm chí 40 đô la/thùng.
Tầm nhìn của dự án là đến năm 2020-2025, với tình hình giá dầu thế giới nhiều biến động và nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước ngày càng tăng, thì việc lên kế hoạch mở rộng ngay từ thời điểm này, theo tôi, không phải là sớm.
- Vậy, nên chọn phương án nâng công suất nhà máy hay xây một nhà máy khác để tiết kiệm chi phí đầu tư?
- Hiện mới chỉ là giai đoạn nghiên cứu sơ bộ và có nhiều phương án, nâng cấp ra sao đòi hỏi phải nghiên cứu chi tiết hơn. Nếu Nhà máy Lọc dầu Dung Quất nâng cấp thì với công suất hiện tại 6,5 triệu tấn/năm, có khả năng nâng lên 8-8,5 triệu tấn/năm.
Tuy nhiên, đó chỉ là một phương án, hướng thứ hai mà thế giới cũng làm nhiều là xây một dây chuyền thứ hai, (giống như nhà máy thứ hai) bên cạnh nhà máy thứ nhất để tận dụng các lợi thế có sẵn. Như thế, chỉ cần một tổng giám đốc (của nhà máy thứ nhất), nếu xây ở chỗ khác thì phải nhân đôi số lãnh đạo và cán bộ lên.
Lợi thế thứ hai là về cơ sở hạ tầng, rất nhiều hạng mục phụ trợ có thể sử dụng cho dây chuyền thứ hai, ví dụ như cảng biển nước sâu tại Dung Quất.
- Thưa ông, bài toán giá xăng dầu trong nước sẽ như thế nào sau khi nhà máy hoạt động, liệu người tiêu dùng có thể hy vọng một mức giá “dễ thở” hơn không?
- Đó là chuyện điều tiết vĩ mô của Chính phủ và còn phụ thuộc vào thuế nhập khẩu xăng dầu và tình hình kinh tế. Nhưng nhà máy sẽ giúp “giảm nhiệt” thị trường, giảm sức ép nhập khẩu, giảm phụ thuộc vào nước ngoài vì nó đáp ứng khoảng 30% nhu cầu xăng dầu của đất nước.
Tác động của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất lên thị trường phân phối xăng dầu và việc chế biến là rất lớn, nên ngay cả việc mua dầu thô từ mỏ Bạch Hổ - nguồn tài nguyên đất nước cũng là bài toán kinh tế cân đối của Chính phủ và Bộ Tài chính.
- Nhưng giá dầu thế giới đã tụt xuống dưới 40 đô la Mỹ/thùng, như vậy giá bán xăng dầu của nhà máy vào năm tới sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với giá nhập khẩu và có thể lợi nhuận sẽ bị ảnh hưởng?
- Cá nhân tôi không cho rằng giá dầu thế giới sẽ giảm nữa bởi vì OPEC (các nước xuất khẩu dầu mỏ) sẽ điều chỉnh lại sản lượng và hiện nay họ đã có kế hoạch cắt giảm sản lượng. Ngoài ra, số tiền 700 tỉ đô la mà Chính phủ Mỹ tung ra cũng sẽ giúp kinh tế Mỹ hồi phục và giá dầu thế giới sẽ tăng trở lại chứ không thể giảm tiếp.
BP sẽ cung cấp dầu thô cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất
Liên quan đến việc chọn đối tác nước ngoài cung cấp nguồn dầu thô cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất (DQR), ông Đinh La Thăng, Chủ tịch HĐQT tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), tiết lộ với TBKTSG rằng dự kiến tuần tới PVN sẽ ký hợp đồng với tập đoàn Dầu khí BP của Anh về việc mua dầu thô của BP để cung cấp cho DQR nhằm tiến tới thay thế nguồn dầu từ mỏ Bạch Hổ đang cạn. “Chúng tôi có thể đạt được thỏa thuận với BP là tập đoàn này sẽ cung cấp tới 50% lượng dầu thô cho DQR trong dài hạn”, ông Thăng xác nhận với TBKTSG.
Theo thông tin từ Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR), PVN đã kiến nghị lên Chính phủ việc bán một phần cổ phần trong BSR cho đối tác nước ngoài để lấy vốn đầu tư mở rộng nhà máy hoặc xây dựng dây chuyền thứ hai. Tỷ lệ cổ phần có thể bán trong BSR lên tới 49% và hiện nay nhiều công ty lớn của nước ngoài như Shell (Hà Lan), Essar (Ấn Độ), Zarubezhneft và Rosneft (Nga)… đã bày tỏ sự quan tâm tới việc mua cổ phần.
BSR được thành lập ngày 19-5-2008 với vốn điều lệ ban đầu là 30 tỉ đồng và số vốn này sẽ tăng lên nhiều trong năm 2009 tương ứng với công suất và doanh thu tăng dần của nhà máy. Theo ông Đinh Văn Ngọc, Phó tổng giám đốc BSR, công suất chế biến của DQR trong năm 2009 dự kiến đạt gần 4 triệu tấn và chế biến khoảng 3-3,5 triệu tấn sản phẩm với tổng doanh thu khoảng 40.000 tỉ đồng tùy thuộc giá dầu thế giới. Mức doanh thu này sẽ được tính vào giá trị nhà máy.
Việc định giá nhà máy đang được PVN và BSR tiến hành. Theo ông Ngọc, hiện nay giá trị của nhà máy không phải là 2,5 tỉ đô la Mỹ như tổng vốn đầu tư nữa mà lên tới 3-4 tỉ đô la thậm chí cao hơn nữa do giá cả thị trường đã thay đổi rất nhiều.
Dầu ngọt là loại dầu có hàm lượng lưu huỳnh thấp, không gây hại môi trường trong khi dầu chua có hàm lượng lưu huỳnh cao gây ăn mòn kim loại, tạo ra mưa axít và làm ô nhiễm môi trường.
Muốn chế biến dầu hỗn hợp người ta trộn nguyên liệu đầu vào là dầu ngọt với dầu chua theo một tỷ lệ nhất định tùy theo hàm lượng lưu huỳnh trong hai loại dầu này, chẳng hạn 85% dầu ngọt và 15% dầu chua, để đảm bảo sản phẩm đầu ra có chất lượng tốt và ít lưu huỳnh.
Hiện nay, theo đánh giá của các chuyên gia dầu mỏ thì dầu thô khai thác tại các mỏ của Việt Nam hầu hết là dầu ngọt có chất lượng cao, hàm lượng lưu huỳnh thấp. Về lâu dài, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất sẽ sử dụng nguồn dầu ngọt này pha trộn với dầu chua nhập khẩu để tạo ra sản phẩm dầu hỗn hợp.