- Dầu Brent vượt 100 USD/thùng do tình hình Iran căng thẳng
- Đồng đạt kỷ lục cao 6 tuần, vàng vượt 1.600 USD/ounce
- Nông sản tiếp tục tăng giá
Các thị trường hàng hóa đồng loạt tăng giá mạnh ngày thứ 2 trong vòng 3 phiên giao dịch vừa qua, với giá dầu tăng mạnh nhất bởi tình hình Iran căng thẳng gây lo ngại về nguồn cung.
Các thị trường nguyên liệu đồng loạt cất cánh mặc dù đồng USD ngang giá và cổ phiếu Mỹ tăng mạnh. Các nhà đầu tư quay lại với các thị trường đồng và vàng, với hy vọng ngân hàng trung ương sẽ có hành động nhằm thúc đẩy tăng trưởng.
Ngũ cốc có phiên tăng giá mạnh nhất trong năm bởi hạn hán ở khu Trung Tây nước Mỹ ngày càng trầm trọng.
Việc Iran áp các biện pháp trừng phạt đối với Iran châm ngòi cho các cuộc biểu tình. Hy vọng ngày càng cao về các biện pháp kích thích kinh tế của phương Tây trước thềm cuộc họp chính sách của Ngân hàng trung ương châu Âu – với hy vọng sẽ cắt giảm tỷ lệ lãi suất đi ¼ điểm phần trăm càng hậu thuẫn giá hàng hóa.
Chỉ số 19 nguyên liệu Thomson Reuters-Jefferies CRB tăng gần 3% lên mức cao kỷ lục 7-1/2 tuần. Trong 3 phiên vừa qua giá đã tăng 7,7%, là đợt tăng giá 3 ngày mạnh mẽ nhất từ trước tới nay. Tuy nhiên so với đầu năm, giá vẫn giảm 4%.
Giá dầu thô Mỹ, mặc dù tăng gần 14% trong 3 phiên vừa qua, vẫn đang trong xu hướng giảm, hiện tháp hơn 20% so với mức cao kỷ lục trên 110 USD hồi tháng 3.
Với giá dầu rẻ hơn nhiều so với mấy tháng trước đây, khách hàng đang tìm đến mặt hàng này, nhất là khi rủi ro địa chính trị ở Trung Đông gia tăng.
Dầu thô Mỹ tăng giá gần 5% đạt trên 87 USD/thùng đóng cửa đêm qua, sau khi Iran cho biết họ đã thành công trong việc thử nghiệm một số tên lửa có khả năng vươn tới Israel nhằm đáp trả các mối đe dọa tấn công quân sự chống nước này. Hôm thứ 6 (29-6), giá dầu thô tăng 9% kết thúc tháng với phiên tăng giá mạnh nhất 4 phiên.
Dầu Brent tại London kết thúc tăng giá 3% vượt 100 USD/thùng lần đầu tiên trong vòng 3 tuần. Dầu Brent tăng giá cũng nhờ số liệu công bố cho thấy lượng dầu thô rút ra từ kho dự trữ của Mỹ cao hơn dự kiến.
Giá hàng hóa tăng mạnh hơn các thị trường tài chính khác. Chỉ số chứng khoán Wall Street's S&P 500 phiên vừa qua tăng ít hơn, mặc dù chứng khoán Mỹ tăng giá ngày thứ 3 liên tiếp. Đồng euro tăng giá so với USD.
Đồng kỳ hạn 3 tháng tại London tăng 2,5% lên mức cao nhất 7 tuần, 7.823 USD/tấn, trước khi kết thúc ngày ở mức 7.819 USD/tấn.
Các nhà kinh doanh đồng chủ yếu tập trung vào triển vọng các ngân hàng trung ương sẽ nới lỏng hơn nữa chính sách tiền tệ.
"ECB có thể giảm tỷ lệ lãi suất, Trung Quốc cũng có thể sẽ làm như vậy, và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cũng có thể hành động sau số liệu sản xuất ISM đáng thất vọng”, Daniel Briesemann, nhà phân tích của Commerzbank cho biết.
Sản xuất của Mỹ tháng 6 giảm lần đầu tiên trong vòng gần 3 năm, cho thấy khả năng tốc độ hồi phục đang chậm lại, và làm tăng hy vọng Fed sẽ có thêm biện pháp nới lỏng tiền tệ.
Giá vàng cũng tăng, tăng 1,5%, bởi dự đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và các ngân hàng trung ương khác đều đang xem xét giảm lãi suất hơn nữa sau những số liệu kinh tế tháng 6 yếu kém.
Trên các thị trường ngũ cốc, lo ngại về thời tiết nóng ở vành đai trồng ngũ cốc Mỹ đẩy giá ngô và lúa mì tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 8 năm ngoái, và đậu tương cao kỷ lục 4 năm.
Đường thô Mỹ cũng cao kỷ lục 2 tháng, được thúc đẩy bởi vụ thu hoạch ở Brazil bị chậm lại do thời tiết ẩm ướt. Cà phê arabica cũng được hỗ trợ giá bởi lo ngại ảnh hưởng của mưa tới chất lượng vụ tới.
Thị trường Mỹ sẽ đóng cửa giao dịch đêm nay nhân ngày Quốc khánh.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa | ĐVT | Giá | +/- | +/- (%) |
Dầu Brent | USD/thùng | 100,680 | 0,000 | 0,00% |
Dầu khí | USD/tấn | 876,000 | 1,000 | 0,11% |
Dầu đốt | US cent/gallon | 275,530 | -0,320 | -0,12% |
Khí thiên nhiên | USD/mBtu | 2,912 | 0,013 | 0,45% |
Xăng RBOB FUT | US cent/gallon | 272,760 | 0,470 | 0,17% |
Dầu thô WTI) | USD/thùng | 87,580 | -0,080 | -0,09% |
Hạt cải WCE | CAD/tấn | 601,200 | 0,000 | 0,00% |
Cacao London | GBP/tấn | 1,541,000 | 14,000 | 0,92% |
Cacao Mỹ | USD/tấn | 2,350,000 | 60,000 | 2,62% |
Cà phê Mỹ | US cent/lb | 180,450 | 5,850 | 3,35% |
Ngô | US cent/bushel | 674,500 | 18,750 | 2,86% |
Bông | US cent/lb | 72,600 | 0,580 | 0,81% |
Nước cam cô đặc đông lạnh | US cent/lb | 120,750 | 3,400 | 2,90% |
Lúa mì CBOT | US cent/bushel | 799,250 | 26,750 | 3,46% |
Lúa mì KCB | US cent/bushel | 802,500 | 25,500 | 3,28% |
Đường thô | US cent/lb | 21,980 | 0,580 | 2,71% |
Đậu tương | US cent/bushel | 1,474,750 | 36,750 | 2,56% |
Gỗ xẻ | USD/1000 board feet | 272,800 | 1,900 | 0,70% |
Lúa mạch | US cent/bushel | 356,750 | 2,750 | 0,78% |
Gạo thô | USD/cwt | 15,005 | 0,325 | 2,21% |
Khô đậu tương | USD/tấn | 429,200 | 11,300 | 2,70% |
Dầu đậu tương | US cent/lb | 53,880 | 0,840 | 1,58% |
Lông cừu (SFE) | US cent/kg | 1,237,000 | -8,000 | -0,64% |
Đồng | US cent/lb | 353,400 | -0,600 | -0,17% |
Vàng New York | USD/ounce | 1,618,400 | -3,400 | -0,21% |
Vàng Hongkong | USD/ounce | 1,620,000 | -0,700 | -0,04% |
Bạc New York | USD/ounce | 28,205 | -0,075 | -0,27% |
Bạc Hongkong | USD/ounce | 28,500 | 0,000 | 0,00% |
Nguồn tin: Reuters, Bloomberg