- Ngô và đậu tương tháng 7 tăng giá mạnh nhát trong vòng ít nhất 4 năm
- Dầu, đồng giảm bởi lo ngại hành động của ECB và Fed chưa đủ mạnh
- Khí gas dẫn đầu đà tăng trong ngày do nhu cầu làm mát trong mùa hè
Các thị trường ngũ cốc tiếp tục tăng giá trong phiên cuối tháng do lo ngại về những thiệt hại đối với vụ mùa Mỹ do hạn hán trầm trọng nhất trong vòng hơn nửa thế kỷ nay góp phần đẩy giá hàng hóa tăng, mặc dù giá dầu và đồng giảm.
Đậu tương và ngô kỳ hạn tại Chicago tăng hơn 2%, đem lại tháng tăng giá mạnh nhất trong vòng ít nhất 4 năm.
Dầu và đồng giảm giá khoảng nửa % bởi các nhà đầu tư tập trung vào các thị trường nông sản, với hy vọng sẽ có những biện pháp kích thích hơn nữa mà Ngân hàng trung ương Châu Âu và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể tung ra trong tuần này.
Ngoài ngũ cốc, giá đường thô kỳ hạn tại New York tăng khoảng 1% bởi thời tiết khô hạn ở Ấn Độ- quốc gia sản xuất đường chính, trong bối cảnh thiếu mưa.
Chỉ số 19 nguyên liệu Thomson Reuters-Jefferies CRB tăng phiên thứ 4 liên tiếp, với mức ttawng 1%.
Khí thiên nhiên dẫn đầu xu hướng tăng, tăng tới 7% do thời tiết nóng tại Mỹ đẩy tăng nhu cầu sử dụng máy điều hòa làm mát. Đậu tương và ngô cũng tăng mạnh.
Hạn hán tồi tệ nhất kể từ năm 1956 vẫn tiếp diễn ở khu Trung Tây nước Mỹ đẩy giá tăng trong suốt 6 tuần qua, nâng giá ngô và đậu tương lên cao kỷ lục. Lúa mì cũng tăng lên mức cao nhất trong vòng 4 năm, bởi hạn hán không chỉ ở Mỹ mà còn đang lan sang miền nam châu Âu.
Đậu tương kỳ hạn tại Chicago – giá giảm mạnh trong tuần qua do hoạt động bán kiếm lời sau khi vọt lên 17,77-3/4 USD hôm 20-7 – đang vươn tới tháng tăng giá mạnh nhất kể từ tháng 10-2006.
Ngô vụ mới kỳ hạn tháng 12 giá tăng 49% trong 6 tuần qua, trong khi đậu tương tăng 20%. Lúa mì kỳ hạn tháng 9 tăng giá 40% nhưng vẫn chưa bằng mức cao kỷ lục 13 USD năm 2008.
Các nhà chăn nuôi gia súc và gia cầm bị ảnh hưởng nặng nề bởi giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng, và cũng bởi chính sách tăn cường sản xuất ethanol của Mỹ - khiến hơn 1/3 sản lượng ngô bị dùng làm nguyên liệu sản xuất ethanol.
Các chương trình kích thích chưa đủ mạnh
Tại London, dầu thô Brent giảm giá phiên đầu tiên trong vòng 5 phiên do lo ngại rằng những biện pháp kích thích của Mỹ và Châu Âu vẫn chưa đủ mạnh.
Giá dầu giảm mặc dù điều tra của Reuters cho thấy sản lượng dầu của các nước sản xuất lớn nhất thế giới giảm sút.
Cung dầu từ 12 thành viên Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ giảm 450.000 thùng/ngày trong tháng 7 xuống 31,18 thùng/ngày, theo điều tra của Reuters, bởi sự trừng phạt của phương Tây làm giảm hơn nữa nguồn cung từ Iran và cũng bởi xuất khẩu từ Angola, Arập Xêút và Libya giảm.
Tăng trưởng chậm lại ở Mỹ, nước tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới, làm dấy lên dự đoán rằng Fed sẽ tung ra những biện pháp kích thích mới sau cuộc họp sẽ diến ra trong ngày thứ 3 và thứ 4 tuần này.
Chủ tịch ECB, Mario Draghi, tuần trước cũng hưa sẽ làm mọi thứ để bảo vệ đồng euro, làm gia tăng hy vọng về những biện pháp kích thích mới để giải quyết cuộc khủng hoảng nợ trong cuộc họp của ECB sẽ diễn ra vào thứ 5 tuần này.
Nhưng các nhà phân tích cho biết các thị trường có thể đang hy vọng quá nhiều.
"Hành động của các ngân hàng trung ương có thể còn xa vời”, Carsten Fritsch, nhà phân tích thị trường của Commerzbank ở Frankfurt cho biết. "đồng euro đã giảm giá, và dầu mỏ cũng bắt đầu giảm”.
Dầu Brent đã tăng giá trên 8% trong tháng 7 trong khi dầu thô Mỹ tăng khoảng 6%, được hỗ trợ mởi hy vọng sẽ có thêm những chương trình kích thích kinh tế mới.
Phiên 30-7 (kết thúc vào rạng sáng 31-7), dầu thô Brent giá 106,20 USD/thùng, giảm 20 US cent. Dầu thô Mỹ giảm 35 US cent xuống 89,78 USD, cũng kết thúc kỳ 4 ngày tăng giá.
ECB cần hành động nhiều hơn nữa
Giá đồng kỳ hạn tại London giảm phiên đầu tiên trong vòng 5 phiên, cũng bởi lo ngại ECB có thể không thực hiện những cam kết rằng sẽ cứu eurozone bằng mọi giá.
Đồng kỳ hạn 3 tháng tại London giá giảm 19 USD xuống 7.549 USD/tấn. Thị trường này đã tăng giá hơn 2% trong tháng 7.
Tại New York, đồng kỳ hạn tháng 9 giá giảm 0,3% xuống 3,4160 USD/lb.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa | ĐVT | Giá | +/- | +/-(%) | +/-(so với đầu năm) |
Dầu thô WTI | USD/thùng | 89,51 | -0,35 | -0,4% | -9,4% |
Dầu thô Brent | USD/thùng | 106,01 | -0,46 | -0,4% | -1,3% |
Khí thiên nhiên | USD/gallon | 3,214 | 0,199 | 6,6% | 7,5% |
Vàng giao ngay | USD/ounce | 1620,70 | 1,50 | 0,1% | 3,4% |
Vàng kỳ hạn | USD/ounce | 1620,50 | -2,34 | -0,1% | 3,6% |
Đồng Mỹ | US cent/lb | 341,60 | -1,00 | -0,3% | -0,6% |
Dollar |
| 82,801 | 0,092 | 0,1% | 3,3% |
CRB |
| 302,500 | 2,900 | 1,0% | -0,9% |
Ngô Mỹ | US cent/bushel | 806,50 | 19,00 | 2,4% | 24,7% |
Đậu tương Mỹ | US cent/bushel | 1643,50 | 41,75 | 2,6% | 37,1% |
Lúa mì Mỹ | US cent/bushel | 926,50 | 13,50 | 1,5% | 41,9% |
Cà phê arabica | US cent/lb | 178,35 | 4,65 | 2,7% | -21,8% |
Cacao Mỹ | USD/tấn | 2341,00 | 11,00 | 0,5% | 11,0% |
Đường thô | US cent/lb | 22,73 | 0,13 | 0,6% | -2,2% |
Bạc Mỹ | USD/ounce | 28,033 | 0,535 | 1,9% | 0,4% |
Bạch kim Mỹ | USD/ounce | 1410,70 | 3,60 | 0,3% | 0,4% |
Palladium Mỹ | USD/ounce | 588,35 | 16,50 | 2,9% | -10,3% |
Nguồn tin: Reuters