-
Khí gas tăng 5%, dẫn đầu đà tăng giá bởi triển vọng thời tiết giá lạnh
-
Cà phê arabica và đường tăng 3%
-
Vàng đạt kỷ lục cao 1 năm
Giá hàng hoá trên thị trường thế giới phiên đầu tiên của tháng 10 (kết thúc vào rạng sáng 2-10 giờ VN) hầu hết tăng nhờ USD giảm giá, át đi những lo ngại về tình hình khu vực đồng euro.
Khí gas tăng mạnh nhất, tăng 5%, đạt mức cao nhất kể từ đầu năm, bởi triển vọng thời tiết sẽ lạnh hơn ở Mỹ. Những hàng hoá nhẹ như cà phê arabica và đường cũng đều tăng giá khoảng 3%.
Vàng đạt kỷ lục cao 1 năm, với các thương gia và nhà phân tích đều cho rằng hoạt động mua mạnh và khả năng sẽ có thêm nhu cầu từ các ngân hàng trung ương do lo ngại về lạm phát.
Dầu thô Brent kết thúc giảm giá sau khi tăng vào đầu phiên, khi số liệu lạc quan về sản xuất của Mỹ bị lu mờ bởi nỗi lo suy thoái trầm trọng thêm ở khu vực đồng euro và những dấu hiệu kinh tế suy yếu ở châu Á.
Đậu tương và các ngũ cốc như ngô và lúa mì cũng giảm bởi sản lượng ở Mỹ vào kỷ lục và thông báo năng suất cao hơn dự kiến.
Chỉ số 19 nguyên liệu Thomson Reuters-Jefferies CRB tăng 0,6% phiên vừa qua, và tăng tổng cộng khoảng 2,5% trong 3 phiên giao dịch gần đây nhất.
USD trái lại giảm từ mức cao nhất 3 tuần so với các đồng tiền khác, sau khi số liệu của Mỹ cho thấy sản xuất tháng 9 tăng ngoài dự kiến lần đầu tiên kể từ tháng 5, bửoi đơn đặt hàng mới và việc làm đều tăng.
Giá hàng hoá quý III đã tăng mạnh nhất trong vòng gần 2 năm, bởi kỳ vọng vào các chương trình mua trái phiếu và kích thích kinh tế của các chính phủ, đặc biệt là Hoa Kỳ, châu Âu và Trung Quốc.
Triển vọng luồn vốn sẽ đổ vào thị trường hàng hoá ngày càng nhiều trong quý này, sau khi một thẩm phán Mỹ đưa ra đề xuất áp những quy định cứng rắn để kiểm soát đầu cơ quá mức tại các thị trường nguyên liệu.
Mặc dù có nhiều yếu tố tích cực tác động lên hoạt động thương mại, song các thương gia và nhà phân tích cho biết vẫn còn nhiều tác nhân có khả nưng gây giảm giá trong quý IV, đặc biệt là yếu tố châu Âu.
Số liệu về sản xuất của các nhà máy trên toàn cầu vừa công bố cho thấy các công ty trên toàn thế giới vẫn chưa được hưởng lợi từ các khoản chi của các gói kcíh thích kinh tế phát ra từ các ngân hàng trung ương.
Các nhà máy eurozone có quý tồi tệ nhất kể từ đầu 2009, trong bối cảnh cả khu vực vẫn tiếp tục chật vật trong suy thoái.
Sản xuất ở Trung Quốc cũng giảm, cho thấy nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới có lẽ đã mất đà thực sự trong quý thứ 7 liên tiếp.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa | ĐVT | Giá 28/9 | +/- | +/-(%) | +/-(so với đầu năm) |
Dầu thô WTI | USD/thùng | 92,46 | -0,02 | 0,0% | -6,4% |
Dầu thô Brent | USD/thùng | 112,13 | -0,26 | -0,2% | 4,4% |
Khí thiên nhiên | USD/gallon | 3,480 | 0,000 | 0,0% | 16,4% |
Vàng giao ngay | USD/ounce | 1783,30 | 9,40 | 0,5% | 13,8% |
Vàng kỳ hạn | USD/ounce | 1775,64 | -4,75 | -0,3% | 13,5% |
Đồng Mỹ | US cent/lb | 378,55 | 2,75 | 0,7% | 10,2% |
Đồng LME | USD/tấn | 8299,50 | 94,50 | 1,2% | 9,2% |
Dollar |
| 79,818 | -0,117 | -0,1% | -0,4% |
CRB |
|
|
|
|
|
Ngô Mỹ | US cent/bushel | 760,00 | 0,50 | 0,1% | 17,6% |
Đậu tương Mỹ | US cent/bushel | 1563,00 | -39,75 | -2,5% | 30,4% |
Lúa mì Mỹ | US cent/bushel | 896,00 | -16,25 | -1,8% | 37,3% |
Cà phê arabica | US cent/lb | 178,05 | 4,55 | 2,6% | -22,0% |
Cacao Mỹ | USD/tấn | 2450,00 | -66,00 | -2,6% | 16,2% |
Đường thô | US cent/lb | 21,13 | 0,71 | 3,5% | -9,0% |
Bạc Mỹ | USD/ounce | 34,952 | 0,375 | 1,1% | 25,2% |
Bạch kim Mỹ | USD/ounce | 1683,80 | 16,40 | 1,0% | 19,9% |
Palladium Mỹ | USD/ounce | 645,60 | 4,80 | 0,7% | -1,6% |
Nguồn tin: Reuters