Phiên giao dịch 20/9 trên thị trường thế giới, giá hầu hết các hàng hóa chủ chốt đều tăng, trong đó kim loại cơ bản chứng kiến sự tăng giá đồng loạt của các chủng loại, đặc biệt là nhôm.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô hồi phục sau khi số liệu chính thức cho thấy lượng xăng dầu dự trữ của Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất trong 22 tháng qua.
Kết thúc phiên giao dịch, tại thị trường New York giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 10/2017 tăng 0,93 USD lên 50,41 USD/thùng; trong khi đó tại London giá dầu Brent giao tháng 11/2017 tăng 1,15 USD lên 56,29 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết lượng xăng dự trữ trong kho của nước này đã giảm 2,1 triệu thùng trong tuần vừa qua xuống mức thấp nhất kể từ tháng 11/2015. Tuy nhiên, dự trữ dầu mỏ của Mỹ đã tăng 4,6 triệu thùng lên 472,8 triệu thùng.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Dầu mỏ Iraq Jabar al-Luaibi cho biết OPEC và các nước sản xuất sản xuất dầu khác đang cân nhắc khả năng có thể sẽ gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng hoặc cắt giảm sản lượng thêm nữa.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng nhìn chung cũng tăng khi các nhà đầu tư tìm kiếm kênh đầu tư an toàn, trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên tiếp diễn.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao tháng 12/2017 tăng 5,8 USD (tương đương 0,44%) lên 1.316,4 USD/ounce. Tuy nhiên, vàng giao ngay giá giảm nhẹ 0,76% xuống 1.301,2 USD/ounce.
Các thương nhân tỏ ra thận trọng khi Tổng thống Mỹ Donald Trump, trong bài phát biểu trước Đại Hội đồng Liên hợp quốc ngày 20/9, đã dọa có thể sẽ "hủy diệt hoàn toàn" CHDCND Triều Tiên nếu Bình Nhưỡng tấn công Mỹ hay các đồng minh của Mỹ.
Tuy nhiên, xu hướng tăng của giá vàng bị cản trở bởi đồng USD tăng giá sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho hay vẫn có kế hoạch tăng lãi suất thêm một lần nữa vào cuối năm nay. Lãi suất tăng sẽ làm đồng USD tăng giá và làm giảm sự hấp dẫn của vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 12/2017 tăng 5,5 US cent (0,32%) lên 17,334 USD/ounce; bạch kim giao tháng 10/2017 khép phiên giảm 5,8 USD (0,61%) xuống còn 945,4 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá nhôm lập đỉnh 5 năm trong khi các kim loại khác hầu hết cũng vững đến tăng.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá nhôm hợp đồng tham chiếu trên sàn giao dịch London (LME) tăng 3% lên mức 2.188,50 USD/tấn, trong phiên có lúc ở mức 2.191,50 USD/tấn, cao nhất kể từ tháng 9/2012 sau khi hãng sản xuất khổng lồ Chinalco của Trung Quốc thông báo cắt giảm sản lượng sớm hơn 2 tháng so với dự kiến đồng thời sẽ sớm giảm lượng dự trữ kim loại này. Nhôm đã tăng giá 3 phiên liên tiếp.
Giá nhôm trên sàn Thượng Hảí thậm chí còn lên mức cao nhất 6 năm, với hợp đồng giao dịch nhiều nhất kết thúc phiên tăng 3,36% - mạnh nhất kể từ ngày 9/8 – lên 17.055 NDT (2.594,86 USD)/tấn, cao nhất kể từ tháng 10/2011.
Như vậy giá kim loại trắng này đã tăng 28% từ đầu năm tới nay do lo ngại chiến dịch chống khói bụi của Trung Quốc sẽ buộc đóng cửa những cơ sở sản xuất bất hợp pháp sẽ làm giảm cung và khiến thị trường trở nên thiếu hụt.
Mùa đông đang tới gần, và đó là thời điểm Trung Quốc buộc nhiều cơ sở sản xuất phải cắt giảm sản lượng để giảm khói bụi.
Có 2 công ty nhôm ở Hà Nam đã bắt đầu giảm sản xuất – sớm hơn 2 tháng so với yêu cầu của Chính phủ Trung Quốc.
Chinalco – công ty nhôm quốc doanh lớn nhất Trung Quốc – và Jiaozuo Wanfang sắp bắt đầu giảm 30% sản lượng và sẽ duy trì công suất sản xuất đó cho tới 15/3/2018.
Dự trữ nhôm tại các kho của LME đã giảm xuống mức thấp chưa từng có kể từ 2008, là 1,3 triệu tấn, tức là giảm 2.725 tấn chỉ trong vòng 1 ngày.
Sản lượng nhôm thế giới trung bình ngày (không tính Trung Quốc) trong tháng 8 đã giảm xuống 69.800 tấn, so với 70.100 tấn của tháng 7, theo số liệu của Viện Nhôm Quốc tế (IAI) công bố ngày 20/9.
Sản lượng nhôm toàn cầu trong tháng 8 (trừ Trung Quốc) là 2,164 triệu tấn, giảm so với 2,173 triệu tấn của tháng 7.
Sản lượng trung bình ngày của Trung Quốc trong tháng 8 cũng giảm xuống 85.200 tấn, so với 86.600 tấn của tháng 7, đưa tổng sản lượng tháng 8 của nước này ở mức 2,64 triệu tấn, giảm 3,7% so với 2,686 triệu tấn cảu tháng trước đó. Tính chung 8 tháng đầu năm, Trung Quốc sản xuất 22,17 triệu tấn, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước.
“Tăng trưởng nhu cầu tăng sẽ vượt mức tăng công suất sản xuất kể từ 2017, sẽ đẩy giá nhôm tăng theo”, các nhà phân tích thuộc Citi nhận định.
Các nhà phân tích thuộc JPMorgan cũng dự báo giá nhôm sẽ còn tăng thêm 100 USD/tấn nữa trong quý 4, khi “cuộc cải cách nguồn cung thực sự diễn ra, mặc dù dự trữ nhôm của Trung Quốc tăng gần gấp 4 lần từ đầu năm tới nay”. Tuy nhiên, họ cho rằng “Giá tăng như vậy có thể sẽ khích lệ các nhà luyện nhôm ở ngoài Trung Quốc gia tăng sản xuất, khi đó chỗ thiếu hụt sẽ được bù lấp”.
Về những kim loại khác, giá đồng trên sàn LME vững ở 6.543 USD/tấn sau khi tăng liền 3 phiên trước đó. Nickel tăng 2,9% lên 11.460 USD/tấn. Thị trường nickel thế giới đã bị tăng mức thiếu hụt trong tháng 7 vừa qua khi nhu cầu từ hãng sản xuất thép không gỉ hàng đầu của Trung Quốc tăng lên, số liệu từ Tập đoàn nghiên cứu nickel quốc tế cho thấy. Chì đã tăng giá 1,5% lên 2.457 USD/tấn, kẽm tăng 1% lên 3.138 USD/tấn trong khi thiếc tăng 0,5% lên 20.760 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô tăng do hoạt động mua bù sau phiên giảm trước đó. Đường thô giao tháng 3 năm sau giá tăng 0,33 US cent tương đương 2,3% lên 14,7 US cent/lb; đường trắng giao tháng 12 cũng tăng 6 USD tương đương 1,6% lên 371 USD/tấn.
Khu vực trung – nam Brazil có thể tăng sản lượng ethanl trong vụ mía này thêm 1 tỷ lít so với dự kiến trước đây là 23,8 tỷ lít, do nhu cầu nhiên liệu sinh học gia tăng.
Các nhà máy đường ở khu vực này có thể sẽ giảm sản lượng đường đi từ 500.000 đến 1 triệu tấn trong vụ này để tăng sản lượng ethanol, Luiz Carlos Correa Carvalho, chủ tịch công ty tư vấn Canaplan cho biết, vì lợi nhuận từ sản xuất nhiên liệu tăng và trong một số trường hợp và bán cũng dễ dàng hơn so với bán đường.
Tuy nhiên, giá đường trắng kỳ hạn gần đây chịu áp lực giảm bởi Liên min châu Âu đang tiến tới thời điểm tự do hóa hạn ngạch đường (ngày 1/10) và dự báo sản lượng sẽ tăn mạnh vì lý do đó.
Với cà phê, giá arabica giao tháng 12 tăng 1,2 US cent tương đương 0,9% lên 1,3655 USD/lb, sau khi có lúc chạm 1,3745 USD. Lo ngại về thời tiết ở Brazil đang đẩy giá tăng lên. Robusta giao tháng 11 cũng tăng 52 USD tương đương 2,6% lên 2.035 USD/tấn, mức cao nhất 2 tuần.
Giá hàng hóa thế giới
ĐVT | Giá | +/- | +/- (%) | |
Dầu thô WTI | USD/thùng | 50,41 | +0,93 | +0,84% |
Dầu Brent | USD/thùng | 56,29 | +1,15 | +1,23% |
Dầu thô TOCOM | JPY/kl | 37.710,00 | +690,00 | +1,86% |
Khí thiên nhiên | USD/mBtu | 3,08 | -0,01 | -0,48% |
Xăng RBOB FUT | US cent/gallon | 165,13 | -0,38 | -0,23% |
Dầu đốt | US cent/gallon | 180,63 | -0,07 | -0,04% |
Dầu khí | USD/tấn | 538,50 | +1,50 | +0,28% |
Dầu lửa TOCOM | JPY/kl | 52.430,00 | +830,00 | +1,61% |
Vàng New York | USD/ounce | 1.302,10 | +14,30 | +1,09% |
Vàng TOCOM | JPY/g | 4.683,00 | -5,00 | -0,11% |
Bạc New York | USD/ounce | 17,13 | +0,20 | +1,18% |
Bạc TOCOM | JPY/g | 61,90 | +0,30 | +0,49% |
Bạch kim giao ngay | USD/t oz. | 940,18 | -4,17 | -0,44% |
Palladium giao ngay | USD/t oz. | 914,83 | -1,66 | -0,18% |
Đồng New York | US cent/lb | 294,00 | -2,90 | -0,98% |
Đồng LME 3 tháng | USD/tấn | 6.526,00 | -13,00 | -0,20% |
Nhôm LME 3 tháng | USD/tấn | 2.177,00 | +52,00 | +2,45% |
Kẽm LME 3 tháng | USD/tấn | 3.132,00 | +25,50 | +0,82% |
Thiếc LME 3 tháng | USD/tấn | 20.625,00 | -25,00 | -0,12% |
Ngô | US cent/bushel | 350,50 | +0,50 | +0,14% |
Lúa mì CBOT | US cent/bushel | 451,00 | +1,25 | +0,28% |
Lúa mạch | US cent/bushel | 248,25 | +2,00 | +0,81% |
Gạo thô | USD/cwt | 12,73 | -0,07 | -0,59% |
Đậu tương | US cent/bushel | 970,25 | +0,25 | +0,03% |
Khô đậu tương | USD/tấn | 310,20 | +0,10 | +0,03% |
Dầu đậu tương | US cent/lb | 34,83 | -0,08 | -0,23% |
Hạt cải WCE | CAD/tấn | 494,10 | +1,20 | +0,24% |
Cacao Mỹ | USD/tấn | 1.998,00 | +33,00 | +1,68% |
Cà phê Mỹ | US cent/lb | 136,55 | +1,20 | +0,89% |
Đường thô | US cent/lb | 14,70 | +0,33 | +2,30% |
Nước cam cô đặc đông lạnh | US cent/lb | 154,70 | +2,55 | +1,68% |
Bông | US cent/lb | 69,24 | -0,01 | -0,01% |
Lông cừu (SFE) | US cent/kg | -- | -- | -- |
Gỗ xẻ | USD/1000 board feet | 390,00 | +8,20 | +2,15% |
Cao su TOCOM | JPY/kg | 214,70 | +2,50 | +1,18% |
Ethanol CME | USD/gallon | 1,49 | -0,01 | -0,73% |
Nguồn tin: Vinanet.vn