Phiên giao dịch 10/8 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 11/8 giờ VN), giá nhiều mặt hàng chủ chốt sụt giảm.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) công bố các số liệu mới nhất cho thấy sản lượng khai thác tăng trong tháng Bảy.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 9/2017 trên sàn New York giảm 0,97 USD (gần 1%), xuống 48,59 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 10/2017 trên sàn London cũng giảm 0,80 USD, xuống 51,90 USD/thùng vào cuối phiên giao dịch.
Theo báo cáo hàng tháng của OPEC công bố ngày 10/8, sản lượng của 14 quốc gia thành viên OPEC tháng 7 đã lên 32,87 triệu thùng/ngày, tăng nhẹ từ mức 32,69 triệu thùng/ngày trong tháng 6.
Sản lượng tăng chủ yếu là ở các nước Libya, Nigeria và Saudi Arabia. Libya và Nigeria không tham gia thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu mỏ. Trong khi
đó, Saudi Arabia, quốc gia đi đầu trong các nỗ lực kêu gọi các nước trong và ngoài OPEC đóng băng sản lượng khai thác để ngăn chặn tình trạng "vàng đen" rớt giá, lại đang tăng sản lượng. Sản lượng dầu thô của Saudi Arabia trong tháng 7 đạt 10,067 triệu thùng/ngày, tăng 32.000 thùng/ngày trong tháng trước đó, cao hơn mức trần đã cam kết.
Cũng trong báo cáo này, OPEC nâng nhẹ dự báo nhu cầu dầu mỏ toàn cầu trong năm nay lên mức 96,49 triệu thùng/ngày, tăng 1,37 triệu thùng/ngày so với dự báo trước đó. Theo OPEC, nhu cầu dầu mỏ trên thế giới vào năm sau sẽ tiếp tục tăng lên mức 97,77 triệu thùng/ngày.
Hồi tháng Năm vừa qua, các nước thành viên OPEC và một số quốc gia khác, trong đó có Nga, đã nhất trí duy trì cam kết cắt giảm sản lượng khai thác đến đầu năm 2018 nhằm giảm tình trạng nguồn cung dư thừa, nguyên nhân khiến dầu mỏ rớt giá. Mặc dù giá dầu thô đã nhích lên đôi chút song không thể tiếp tục tăng mạnh do một số nước xuất khẩu dầu mỏ đã khai thác nhiều hơn so với mức đã cam kết hồi tháng 11 năm ngoái, làm tăng nghi ngờ khả năng thực thi thỏa thuận của các nước thành viên OPEC.
OPEC cùng với Nga và các nước sản xuất khác đang cắt giảm sản lượng 1,8 triệu thùng/ngày theo thỏa thuận được gia hạn đến tháng 3/2018.
Thỏa thuận cắt giảm sản lượng đã hỗ trợ giá dầu, nhưng việc Libya và Nigeria, hai nước thành viên OPEC được miễn tham gia thỏa thuận, khôi phục sản lượng đã ảnh hưởng đến nỗ lực chung.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất 2 hai tháng do khi quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên thúc đẩy hoạt động mua mặt hàng này.
Tại New York (Mỹ) cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,6% lên 1.284,71 USD/ounce sau khi có thời điểm vọt lên 1.287,73 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 8/6; hợp đồng giao tháng 12/2017 tăng 0,8% và đóng cửa ở mức 1.290,10 USD/ounce.
Ngày 10/8, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã gia tăng cảnh báo đối với Triều Tiên, nhấn mạnh rằng lời đe dọa trút "bão lửa và cơn thịnh nộ" lên Bình
Nhưỡng có thể chưa đủ cứng rắn. Cùng ngày 10/8, Triều Tiên thông báo chi tiết rằng quân đội nước này đang lên kế hoạch bắn 4 tên lửa đạn đạo tầm trung nhằm vào Guam vào giữa tháng Tám này. Trước đó, Triều Tiên tuyên bố đang nghiên cứu kế hoạch tấn công đảo Guam của Mỹ ở Thái Bình Dương bằng tên lửa chiến lược tầm trung Hwasong-12.
Theo nhà phân tích Fawad Razaqzada, thuộc Forex.com, cuộc khẩu chiến giữa Mỹ và Triều Tiên tiếp tục chi phối tâm lý của giới đầu tư. Thị trường chứng khoán toàn cầu đã sụt giảm khá mạnh và các nhà giao dịch đang chuyển sang đầu tư vào các tài sản an toàn hơn như vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,1% lên 17,08 USD/ounce, sau khi có thời điểm tăng lên 17,24 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 14/6.
Trong khi giá bạch kim tăng 0,8% lên 979,85 USD/ounce, sau khi có lúc vọt lên 983,60 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 18/4.
Trên thị trường nông sản, giá đường giảm phiên thứ 8 liên tiếp do dự báo ép mía ở Brazil tăng.
Đường thô giao tháng 10 giá giảm 0,4 US cent tương đương 2,9% xuống 13,24 US cents/lb, trong phiên có lúc giá xuống 13,2 US cent, mức thấp nhất kể từ 29/6. Đường thô giao ngay thậm chí còn giảm tới 11%.
Đường trắng giao tháng 10 giá giảm 11,40 USD tương đương 3% xuống 366,50 USD/tấn, trong phiên có lúc giá chỉ 365,50 USD, mức thấp nhất kể từ tháng 9/2015.
Cà phê arabica cũng giảm giá 4,15 US cent tương đương 2,8% xuống 1,42 USD/lb, trong khi robusta giao tháng 9 giá gảm 46 USD tương đương 2,2% xuống 2.090 USD/tấn, trong phiên có lúc giá chỉ 2.083 USD/tấn, thấp nhất kể từ 29/6.
ĐVT | Giá | +/- | +/- (%) | |
Dầu thô WTI | USD/thùng | 48,59 | -0,97 | -0,09% |
Dầu Brent | USD/thùng | 51,90 | -0,80 | -0,08% |
Dầu thô TOCOM | JPY/kl | 34.400,00 | -1.060,00 | -2,99% |
Khí thiên nhiên | USD/mBtu | 2,98 | -0,01 | -0,30% |
Xăng RBOB FUT | US cent/gallon | 159,34 | -0,94 | -0,59% |
Dầu đốt | US cent/gallon | 162,79 | -0,34 | -0,21% |
Dầu khí | USD/tấn | 480,75 | -5,75 | -1,18% |
Dầu lửa TOCOM | JPY/kl | 49.390,00 | -560,00 | -1,12% |
Vàng New York | USD/ounce | 1.290,70 | +0,60 | +0,05% |
Vàng TOCOM | JPY/g | 4.500,00 | -10,00 | -0,22% |
Bạc New York | USD/ounce | 17,07 | +0,01 | +0,03% |
Bạc TOCOM | JPY/g | 59,50 | -0,40 | -0,67% |
Bạch kim giao ngay | USD/t oz. | 980,54 | -1,19 | -0,12% |
Palladium giao ngay | USD/t oz. | 899,75 | +0,78 | +0,09% |
Đồng New York | US cent/lb | 288,45 | -1,85 | -0,64% |
Đồng LME 3 tháng | USD/tấn | 6.423,00 | -32,00 | -0,50% |
Nhôm LME 3 tháng | USD/tấn | 2.037,00 | +9,50 | +0,47% |
Kẽm LME 3 tháng | USD/tấn | 2.938,00 | +6,50 | +0,22% |
Thiếc LME 3 tháng | USD/tấn | 20.325,00 | +120,00 | +0,59% |
Ngô | US cent/bushel | 373,50 | +2,50 | +0,67% |
Lúa mì CBOT | US cent/bushel | 470,75 | +2,00 | +0,43% |
Lúa mạch | US cent/bushel | 269,25 | +2,25 | +0,84% |
Gạo thô | USD/cwt | 12,29 | +0,04 | +0,33% |
Đậu tương | US cent/bushel | 944,25 | +4,00 | +0,43% |
Khô đậu tương | USD/tấn | 301,40 | +1,20 | +0,40% |
Dầu đậu tương | US cent/lb | 34,32 | +0,16 | +0,47% |
Hạt cải WCE | CAD/tấn | 507,90 | +1,70 | +0,34% |
Cacao Mỹ | USD/tấn | 1.965,00 | -40,00 | -2,00% |
Cà phê Mỹ | US cent/lb | 142,00 | -4,15 | -2,84% |
Đường thô | US cent/lb | 13,24 | -0,40 | -2,93% |
Nước cam cô đặc đông lạnh | US cent/lb | 135,55 | +2,10 | +1,57% |
Bông | US cent/lb | 68,17 | +0,06 | +0,09% |
Lông cừu (SFE) | US cent/kg | -- | -- | -- |
Gỗ xẻ | USD/1000 board feet | 365,50 | -2,50 | -0,68% |
Cao su TOCOM | JPY/kg | 213,40 | -0,70 | -0,33% |
Ethanol CME | USD/gallon | 1,55 | -0,04 | -2,58% |
Nguồn tin: Vinanet.vn