Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Hàng hóa TG sáng 10/1: Giá dầu và cà phê tăng, đường và vàng giảm

Phiên giao dịch 9/1 trên thị trường thế giới, giá một số mặt hàng chủ chốt biến động thất thường.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng trong bối cảnh các nhà giao dịch đang chờ đợi Mỹ công bố thống kê về lượng dự trữ dầu của nước này.

Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 2/2018 trên sàn New York tăng 1,23 USD lên 62,96 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent giao tháng 3/2017 trên sàn London cũng tăng 1,04 USD lên 68,82 USD/thùng.

Các chuyên gia phân tích dự đoán báo cáo của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), dự kiến được công bố trong ngày 10/1, sẽ cho thấy lượng dự trữ dầu của nước này giảm tuần thứ tám liên tiếp, đợt giảm dài nhất trong nhiều năm.

EIA mới đây dự báo giá dầu WTI (các hợp đồng giao ngay) sẽ đạt mức trung bình 55,33 USD/thùng trong năm 2018 và 57,43 USD/thùng trong năm 2019, trong đó giá dầu Brent ước đạt 59,74 USD/thùng năm 2018 và 61,43 USD/thùng năm 2019.

Sản lượng dầu của Mỹ ước đạt trung bình 9,3 triệu thùng/ngày trong năm 2017 và tăng lên khoảng 10,3 triệu thùng/ngày trong năm 2018 - mức cao nhất trong lịch sử.

Giá dầu hồi phục trong mấy tuần gần đây khi các nhà đầu tư đánh cược rằng thị trường sẽ ngày càng khan hiếm dầu, cộng thêm những số liệu cho thấy lượng dầu dự trữ của Mỹ giảm và những mối đe dọa đối với nguồn cung đến từ các nước sản xuất chủ chốt như Iran và Venezuela.

OPEC đang theo dõi khủng hoảng kinh tế của Venezuela, cho biết tổ chức này sẽ chỉ tăng sản lượng nếu việc gián đoạn sản xuất đáng kể và lâu dài từ những nước này.

Những khó khăn kinh tế của Venezuela gây thiệt hại cho sản xuất dầu mỏ của nước này, sản lượng đã xuống gần mức thấp trong 30 năm, nhưng sản lượng của Iran không bị ảnh hưởng bởi một làn sóng biểu tình chống chính phủ. Ngành năng lượng đổ nát của Venezuela đang khó khăn do các lệnh trừng phạt của Mỹ, tình trạng thiếu vốn hoạt động và những đe dọa khủng hoảng kinh tế tiếp tục gây thiệt hại cho nước này.

Nguồn tin của OPEC cho biết “ngay cả nếu có gián đoạn nguồn cung từ Iran và Venezuela .. OPEC sẽ không tăng sản lượng”. “Chính sách của OPEC là đưa tồn kho giàm xuống mức trung bình và sẽ không thay đổi, trừ khi gián đoạn nguồn cung 1.000.000 thùng mỗi ngày duy trì hơn một tháng và gây thiếu hụt nguồn cung dầu thô cho người tiêu dùng”.

Những cuộc biểu tình tại Iran bắt đầu trong cuối tháng 12 đã không đe dọa ngay tới sản lượng dầu mỏ mặc dù có lo ngại rằng Tổng thống Mỹ Donald Trump có thể tái áp đặt các lệnh trừng phạt tới ngành dầu mỏ của Iran - điều có thể làm giám đoạn xuất khẩu.

Việc cắt giảm sản lượng của OPEC đang giúp giảm tồn kho trên toàn cầu, ngay cả khi sản lượng tiếp tục tăng ở Mỹ. Sản lượng của Mỹ đã tăng lên 9,78 triệu thùng trong tuần trước.

Hiện các nhà giao dịch và quan sát thị trường dầu đang chờ đợi xem liệu Tổng thống Donald Trump có hay không gia hạn việc nới lỏng trừng phạt Iran, trong khuôn khổ hiệp định quốc tế năm 2015 nhằm kiềm chế chương trình hạt nhân của nước này. Nếu Mỹ khôi phục các lệnh trừng phạt kinh tế, hoạt động xuất khẩu dầu của Iran có thể bị hạn chế.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do USD mạnh lên sau những lo ngại về tình hình chính trị tại châu Âu.

Giá vàng giao ngay giảm 0,6% xuống 1.312,58 USD/ounce. Tuần trước, kim loại quý này đã có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 15/9/2017 là 1.325,86 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 2/2018 cũng giảm 0,5% (6,7 USD) xuống 1.313,7 USD/ounce.

Chỉ số USD – được coi là thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – phiên này tăng 0,2% lên mức 92,54, sau khi đã chạm mức “đỉnh” trong vòng một tuần tại phiên 8/1.

Giá vàng luôn nhạy cảm với những biến động của đồng USD, do đồng bạc xanh mạnh lên sẽ khiến sức hấp dẫn của vàng giảm đáng kể.

Theo nhà phân tích Jonathan Butler của tập đoàn Mitsubishi, đồng USD tăng giá một phần là do đồng euro đang chịu sức ép đi xuống vì những lo ngại về cuộc tổng tuyển cử sắp tới ở Italy, việc đàm phán thành lập chính phủ tại Đức và những vấn đề xung quanh tiến trình Brexit.

Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,93% xuống 16,98 USD/ounce, trong khi giá bạch kim cũng để mất 0,9% xuống 963,74 USD/ounce sau khi đạt mức cao nhất trong ba tháng rưỡi là 973,6 USD/ounce tại phiên 8/1. Trong khi đó, giá palađi tiếp tục được hỗ trợ bởi nhu cầu ngày càng tăng từ ngành công nghiệp sản xuất ô tô. Phiên này giá palađi tăng 0,1% lên 1.101,55 USD/ounce, sau khi chạm mức cao kỷ lục mới là 1.111,4 USD/ounce trong cùng phiên.

Trên thị trường nông sản, giá đường tiếp tục giảm trong khi cà phê robusta hồi phục từ mức thấp nhất 18 tháng.

Đường thô giao tháng 3 giá giảm 0,05 US cent tương đương 0,3% xuống 14,73 US cent/lb, có lúc giá xuống mức thấp nhất kể từ 21/12 là 14,42 US cent. Đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 1,30 USD tương đương 0,3% xuống 389,60 USD/tấn.

Đồng USD mạnh lên và áp lực bán ra từ các nhà sản xuất Thái Lan gây áp lực giảm giá đường. Dự báo giá sẽ còn giảm thêm nữa.

Cà phê đảo chiều tăng giá trở lại. Robusta giao tháng 3 giá tăng 38 USD tương đương 2,3% lên 1.724 USD/tấn, trong phiên có lúc giá chỉ 1.672 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 6/2016.

Arabica giao tháng 3 giá vững ở 1,2513 USD/lb.

Dự báo sản lượng tăng ở Việt Nam gây áp lực giảm giá lúc đầu phiên. 

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

62,96

+1,23

+1,44%

Dầu Brent

USD/thùng

68,82

+1,04

+1,27%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

45.540,00

+540,00

+1,20%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,95

+0,03

+0,89%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

184,78

+1,16

+0,63%

Dầu đốt

US cent/gallon

207,24

+0,62

+0,30%

Dầu khí

USD/tấn

612,25

+5,75

+0,95%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

60.480,00

+510,00

+0,85%

Vàng New York

USD/ounce

1.311,50

-2,20

-0,17%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.714,00

-49,00

-1,03%

Bạc New York

USD/ounce

16,97

-0,04

-0,26%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,20

-0,70

-1,13%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

959,60

-6,50

-0,67%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

1.098,50

-3,33

-0,30%

Đồng New York

US cent/lb

322,60

+1,00

+0,31%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

7.102,00

-23,00

-0,32%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.152,50

-22,50

-1,03%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

3.335,00

-51,00

-1,51%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

19.950,00

-50,00

-0,25%

Ngô

US cent/bushel

348,75

-0,25

-0,07%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

432,50

+0,25

+0,06%

Lúa mạch

US cent/bushel

251,00

+2,00

+0,80%

Gạo thô

USD/cwt

11,90

-0,05

-0,42%

Đậu tương

US cent/bushel

962,25

-1,50

-0,16%

Khô đậu tương

USD/tấn

317,80

-0,40

-0,13%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,68

-0,02

-0,06%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

495,90

-0,50

-0,10%

Cacao Mỹ

USD/tấn

1.899,00

-15,00

-0,78%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

125,15

0,00

0,00%

Đường thô

US cent/lb

14,73

-0,05

-0,34%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

136,45

-2,20

-1,59%

Bông

US cent/lb

78,38

+0,03

+0,04%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

456,70

-3,20

-0,70%

Cao su TOCOM

JPY/kg

207,30

+1,40

+0,68%

Ethanol CME

USD/gallon

1,33

+0,02

+1,61%

 

Nguồn tin: vinanet.vn

ĐỌC THÊM