Không thường xuyên xảy ra, các cuộc khủng hoảng tài chính đòi hỏi phải có những giải cứu kịch tính đang nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn. Mỗi chính quyền trong số bốn chính quyền gần đây nhất của Hoa Kỳ đã phải vật lộn với một cuộc khủng hoảng kinh tế đủ nghiêm trọng để cần tới sự can thiệp của chính phủ. Cuộc khủng hoảng ngân hàng hiện nay xảy ra chỉ ba năm sau khi đại dịch Covid-19 gây ra sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, vốn đã xảy ra hơn một thập kỷ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Thật không may, năng lượng là một trong những lĩnh vực từng bị ảnh hưởng nặng nề nhất mỗi khi nền kinh tế gặp khó khăn. Kinh tế trì trệ bao gồm suy thoái kinh tế có xu hướng tác động tiêu cực rõ rệt đến ngành dầu khí, dẫn đến giá dầu khí giảm mạnh cũng như tín dụng bị thu hẹp. Giá dầu và khí đốt giảm có nghĩa là doanh thu của các công ty dầu khí thấp hơn và các điều kiện tín dụng thắt chặt dẫn đến nhiều công ty thăm dò và khai thác phải trả lãi suất cao hơn khi huy động vốn, do đó thu nhập thậm chí còn bị ảnh hưởng nhiều hơn.
Mặc dù hành động nhanh chóng của chính phủ Hoa Kỳ dường như đã giúp ổn định lĩnh vực ngân hàng, nhưng một số chuyên gia đang cảnh báo rằng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi khó khăn.
Cựu giám đốc PIMCO, Mohamed El-Erian, đã chỉ trích hành động chậm trễ của Cục Dự trữ Liên bang trong việc kiểm soát lạm phát và nói rằng lựa chọn "ít tồi tệ nhất" của ngân hàng trung ương là ngay lập tức tạm dừng tăng lãi suất, "Mức độ sụp đổ lây lan về mặt kinh tế do việc xử lý sai chu kỳ lãi suất này gây ra sẽ rất quan trọng bởi vì có hai động lực khác nhau ở đây. Một là chính các ngân hàng trở nên thận trọng hơn và hai là các ngân hàng mong muốn quy định chặt chẽ hơn. Các cơ quan quản lý và giám sát viên đã lúng túng và phản ứng luôn nghiêm ngặt hơn trong quy định mặc dù đây là sự thất bại của việc giám sát hơn là sự thất bại của quy định," El-Erian nói với CNBC.
Hãy xem xét thị trường năng lượng đã phản ứng như thế nào với các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính trong quá khứ.
Cuộc Đại suy thoái năm 1930
Việc mở cửa các mỏ dầu khổng lồ ở Hoa Kỳ trong những năm sắp bước vào cuộc Đại suy thoái năm 1930 đã dẫn đến tình trạng dư thừa lớn và khiến giá giảm xuống chỉ còn 13 xu mỗi thùng (~5,40 đô la ngày nay đã điều chỉnh theo lạm phát).
Vào tháng 10 năm 1929, dự trữ dầu thô thương mại của Hoa Kỳ đạt mức đáng kinh ngạc là 545 triệu thùng, nhờ việc phát hiện ra một số mỏ dầu lớn ở Oklahoma, Texas, phần còn lại của Tây Nam và California. Trước đó, con số đó tương đương với 214 ngày sản xuất; đối với một số quan điểm, dự trữ dầu thô của Hoa Kỳ là 845,27 triệu trong tuần kết thúc vào ngày 24 tháng 3, tương đương với ~ 42 ngày sản xuất.
Giếng phun đầu tiên hoạt động vào năm 1926 tại mỏ Seminole của Oklahoma, cho sản lượng 136 triệu thùng mỗi năm, tương đương 10% tổng sản lượng dầu của Hoa Kỳ. Một loạt các phát hiện mới ở Thành phố Oklahoma, mỏ Yates (Tây Texas), Van (Đông Texas), Đồi Signal ở California và Mỏ dầu Long Beach siêu khổng lồ ở Greater Los Angeles đã nhanh chóng chấm dứt nỗi lo sợ về dầu đạt đỉnh ở đầu những năm 1920.
Vào mùa hè năm 1931, chỉ riêng mỏ dầu ở Đông Texas đã bơm 900.000 thùng mỗi ngày từ khoảng 1200 giếng, tăng gần như từ 0 chỉ vài tháng trước đó. Thật không may, quá nhiều dầu đã tràn ngập thị trường cộng với nhu cầu thấp trong thời kỳ suy thoái, đã gây ra sự sụp đổ giá dầu nghiêm trọng, với giá giảm từ 1,88 đô la một thùng năm 1926 xuống còn 1,19 đô la năm 1930 và cuối cùng là 13 xu một thùng trong thời kỳ suy thoái vào tháng 7 năm 1931.
Cú Sốc Dầu 1973/1974
Cú sốc dầu mỏ năm 1973/1974 được coi là một trong những cuộc khủng hoảng dầu mỏ quan trọng nhất sau khi lệnh cấm vận dầu mỏ của các nhà sản xuất Ả Rập đối với Hoa Kỳ đã làm sâu sắc thêm cuộc khủng hoảng tài chính đầu những năm 1970. Trong trường hợp này, chính giá dầu cao đã thực sự gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng.
Vào ngày 19 tháng 10 năm 1973, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ Ả Rập (OAPEC) áp đặt lệnh cấm vận dầu đối với Hoa Kỳ để đáp trả yêu cầu của Tổng thống Nixon trước Quốc hội về việc cấp 2,2 tỷ đô la viện trợ khẩn cấp cho Israel cho cuộc Chiến Yom Kippur. Do đó, các quốc gia OAPEC đã ngừng tất cả hoạt động xuất khẩu dầu sang Mỹ và bắt đầu cắt giảm sản lượng làm giảm nguồn cung dầu toàn cầu. Những cắt giảm này gần như dẫn đến khủng hoảng nguồn cung và làm giá dầu tăng gấp bốn lần lên 11,65 đô la một thùng vào tháng 1 năm 1974 từ 2,90 đô la một thùng trước khi có lệnh cấm vận. Lệnh cấm cuối cùng đã được dỡ bỏ vào tháng 3 năm 1974 trong bối cảnh các thành viên OAPEC bất đồng về thời gian kéo dài.
Như chủ tịch Fed khi đó là Arthur Burns đã nhận xét, lệnh cấm vận và thao túng giá dầu đã đến vào thời điểm không thích hợp nhất đối với Hoa Kỳ. Đến giữa năm 1973, giá các mặt hàng công nghiệp đã tăng hơn 10%/năm. Các nhà máy công nghiệp hoạt động gần như hết công suất dẫn đến tình trạng thiếu hụt trầm trọng nguyên liệu công nghiệp. Trong khi đó, ngành dầu mỏ Hoa Kỳ thiếu năng lực sản xuất, dẫn đến tình trạng thiếu hụt dầu trên diện rộng và khan hiếm nhiên liệu ở khắp mọi nơi. Tệ hơn nữa, OPEC đã giành được thị phần đáng kể trong khi các nguồn cung ngoài OPEC đang suy giảm sâu. Điều này cho phép OPEC sử dụng nhiều quyền lực và ảnh hưởng hơn đối với cơ chế định giá trên thị trường dầu mỏ toàn cầu. Sau sự mất giá của đồng đô la, các quốc gia OPEC đã định giá dầu mỏ của họ bằng vàng chứ không phải USD, dẫn đến một đợt tăng giá mạnh của vàng từ 35 USD/ounce lên 455 USD/ounce vào cuối những năm 1970.
Cuối cùng, cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 và lạm phát đi kèm đã gây ra một cuộc suy thoái hình chữ U, đặc trưng bởi một giai đoạn tăng trưởng yếu và suy giảm kinh tế kéo dài.
Khủng hoảng giá dầu năm 1998–1999
Cuộc khủng hoảng giá dầu năm 1998/1999 là một thái cực đối lập với những gì mà những người Mỹ từng trải qua thời kỳ giá dầu tăng vọt trong những năm 1970 đã quen thuộc, với cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã gây ra sự sụt giảm nghiêm trọng về giá.
Sự sụp đổ của đồng Baht Thái Lan vào mùa hè năm 1997 đánh dấu sự khởi đầu của sự sụp đổ giá dầu và dẫn đến sự lao dốc 60% của thị trường chứng khoán. Do đó, nhu cầu dầu ở châu Á, một trụ cột của nhu cầu toàn cầu, đã giảm mạnh cùng với nhu cầu ở các khu vực khác trên thế giới cũng sụt giảm. Càng làm trầm trọng thêm vấn đề, sản xuất của OPEC tiếp tục không bị hạn chế vào thời điểm dầu mỏ Iraq lần đầu tiên quay trở lại thị trường toàn cầu kể từ Chiến tranh vùng Vịnh. Quả thật, Iraq đã tăng gần gấp bốn lần sản lượng từ 600.000 thùng/ngày vào năm 1996 lên 2,3 triệu thùng/ngày vào năm 1998.
Ngay khi giá dầu bắt đầu giảm vào tháng 11 năm 1997, các bộ trưởng của OPEC đã đồng ý tăng hạn ngạch sản xuất thêm 2 triệu thùng mỗi ngày với giả định sai lầm rằng nhu cầu toàn cầu sẽ tiếp tục tăng với tốc độ như trong vài năm trước năm 1997 vào thời kỳ đỉnh cao của phép màu kinh tế châu Á. Không lâu sau đó, OPEC nhận ra rằng họ đã tính toán sai thời điểm và hạ hạn ngạch sản xuất nhiều lần vào năm 1998 nhằm ngăn chặn đà giảm giá dầu. Nhưng một số thành viên, nổi tiếng nhất là Venezuela, không muốn mất thị phần và từ chối hợp tác với nhà sản xuất dẫn đầu Saudi Arabia. Không có gì đáng ngạc nhiên, giá đã rớt 40% trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1997 đến tháng 3 năm 1998 xuống còn 10 USD/thùng, với một số loại giảm xuống mức 6 USD vào cuối năm 1998 trong bối cảnh OPEC tranh cãi.
Đối với những người lái xe Mỹ, sự sụp đổ của giá dầu là tin tốt, và những người mua ô tô tậu những chiếc xe thể thao đa dụng và xe tải nhiều hơn những chiếc xe nhỏ hơn. Các thương hiệu như Ford Expedition Lincoln Navigator đột nhiên không thể đáp ứng kịp nhu cầu.
Tờ New York Times đưa tin: “Lớn hơn có thể tốt hơn hoặc không tốt hơn, nhưng các nhà sản xuất ô tô đang tranh nhau chế tạo những chiếc xe khổng lồ mà người Mỹ sẽ mua”.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008
Cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 được coi là cuộc khủng hoảng lớn nhất xảy ra trên toàn cầu trong thế kỷ này. Cuộc khủng hoảng bắt đầu trên thị trường bất động sản vào năm 2006 và được đánh dấu bằng sự gia tăng mạnh các vụ vỡ nợ đối với các khoản thế chấp dưới chuẩn. Mặc dù làn sóng đầu tiên của cuộc khủng hoảng đã được ngăn chặn, nhưng nó đã làm hạn chế nghiêm trọng hoạt động kinh tế khi lan rộng khắp nền kinh tế. Giá hàng hóa tăng mạnh ngay cả khi thị trường nhà đất sụp đổ.
Cuộc khủng hoảng cuối cùng đã gây ra một làn sóng giảm phát và thanh lý khiến giá trị của tất cả các tài sản, bao gồm dầu mỏ và khí đốt, giảm xuống. Giá dầu đã giảm từ 133,88 đô la một thùng vào tháng 6 năm 2008 xuống còn 39,09 đô la vào tháng 2 năm 2009 trong khi giá khí đốt tự nhiên giảm từ 12,69 đô la một MMBtu xuống còn 4,52 đô la trong cùng khoảng thời gian.
Rất may, cuộc khủng hoảng đã kết thúc một năm sau đó nhờ các biện pháp kích thích tích cực của các chính phủ dẫn đến kỳ vọng lạm phát gia tăng, từ đó kích hoạt sự gia tăng mua hàng hóa cũng như cải thiện điều kiện tín dụng.
Nguồn tin: xangdau.net