Trong 5 năm qua, công ty dầu khí độc lập lớn nhất của Hoa Kỳ, Exxon Mobil (NYSE: XOM), chủ yếu tập trung vào các hoạt động thăm dò ở Nam Mỹ. Tháng trước, tập đoàn dầu mỏ này thông báo đã thực hiện hai phát hiện mới tại các giếng Sailfin-1 và Yarrow-1 nằm ở khu vực Stabroek ngoài khơi Guyana, có khả năng bổ sung thêm nhiều thùng dầu cho một trong những phát hiện dầu mới được theo dõi sát sao nhất. ExxonMobil hiện đã thực hiện hơn 30 phát hiện tại địa điểm này kể từ năm 2015, và đã thúc đẩy sự phát triển và sản xuất ra ở ngoài khơi với tốc độ vượt xa mức trung bình của ngành. Ngược lại, các hoạt động khai thác của Exxon ở châu Phi thường diễn ra không thường xuyên, với phát hiện cuối cùng của hãng ở lục địa này là cách đây gần hai thập kỷ trước. Nhưng Exxon hiện đã thông báo đã cùng với các đối tác phát hiện ra hydrocacbon ở Lô 15 ngoài khơi Angola tại mỏ Bavuca South. Đây là phát hiện thứ 18 của địa điểm này, nhưng là lần đầu tiên kể từ năm 2003. Theo Exxon, tàu khoan Valaris DS-9 đã khoan giếng Bavuca South-1 cách bờ biển Luanda 365 km về phía tây bắc ở độ sâu 1.100 m (3.608 ft), gặp phải đá sa thạch chứa hydrocacbon chất lượng tốt 30 m (98 ft). Exxon sở hữu 36% cổ phần tại khu vực này, với BP Exploration Angola (24%), ENI Angola Exploration (18%), Equinor Angola Block 15 (12%) và Sonangol P&P (10%) là các đối tác của hãng.
Cơ hội về Dầu khí của Châu Phi
Phát hiện nhiên liệu hóa thạch lớn cuối cùng trên lục địa này bắt đầu từ năm 2010 sau khi Anadarko Corp. có trụ sở tại Texas (nay là công ty con của Occidental Petroleum Corp.) và tập đoàn năng lượng khổng lồ Eni S.p.A. (NYSE: E) của Ý phát hiện có khoảng 180 nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên trữ lượng, tương đương xấp xỉ 29 tỷ thùng dầu, tại lưu vực siêu lớn ngoài khơi Rovuma của Mozambique, ngay lập tức đưa quốc gia Nam Phi này trở thành siêu cường LNG toàn cầu tiềm năng. Như thường thấy, các công ty dầu khí bao gồm ExxonMobil, TotalEnergies (NYSE: TTE), Shell (NYSE: SHEL) và China National Petroleum Corp. (NYSE: SNP)) đã đổ xô đến để đưa ra tuyên bố của họ.
Thật không may, chủ nghĩa khủng bố lan rộng và sự đe dọa ngày càng tăng của nạn cướp biển đã không ngừng kìm hãm tiến độ khi Mozambique nhanh chóng gia nhập liên minh các quốc gia châu Phi đang vật lộn với 'lời nguyền tài nguyên.' Cuộc khủng hoảng an ninh ở khu vực phía bắc Cabo Delgado đã khiến hàng trăm nghìn người phải di tản, gây ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo và thậm chí buộc TotalEnergies phải tuyên bố tình trạng bất khả kháng đối với khoản đầu tư lớn vào khí đốt tự nhiên của mình tại quốc gia này. Mozambique hiện đã sẵn sàng vận chuyển lô khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) đầu tiên ra nước ngoài vào tháng 11 vào thời điểm châu Âu đang cố gắng liều lĩnh cắt đứt quan hệ năng lượng với Nga. Các chuyên gia đã ước tính rằng Mozambique có thể kiếm được hơn 100 tỷ đô la từ mỏ khí đốt tự nhiên của mình trong vòng 30 năm tới.
BP đã ký một thỏa thuận mua toàn bộ sản lượng từ dự án Coral-Sul trị giá 7 tỷ USD của Eni - có khả năng sản xuất 3,4 triệu tấn LNG mỗi năm - trong 20 năm tới. Trong khi đó, TotalEnergies đã công bố kế hoạch khôi phục dự án trị giá 20 tỷ đô la vào cuối năm nay, với dự kiến kho cảng này sẽ sản xuất 13,1 triệu tấn LNG hàng năm. Ngoài ra, ExxonMobil cho biết họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng cho một dự án thậm chí lớn hơn nữa trong tương lai gần. Trong khi đó, Liên minh châu Âu đã lên kế hoạch hỗ trợ tài chính gấp 5 lần lên 15 triệu đô la để chống lại các lực lượng đóng gần các dự án khí đốt của Mozambique. EU đã cam kết cung cấp cho quân đội nước này thêm 45 triệu euro (45 triệu USD) hỗ trợ tài chính, và cho đến nay đã cung cấp cho phái bộ SADC tại nước này 2,9 triệu euro tiền tài trợ.
Về phần mình, Mozambique đã lên kế hoạch thành lập một quỹ đầu tư quốc gia vào cuối năm 2022, với 50% doanh thu của quỹ sẽ được tái đầu tư vào quỹ, trong khi 50% còn lại sẽ được chuyển vào ngân sách của chính phủ trong 20 năm đầu sản xuất LNG. Mozambique có tiềm năng tiến lên và trở thành quốc gia có thu nhập trung bình trong hai thập kỷ tới nếu nước này tận dụng được lợi thế.
Vijaya Ramachandran, giám đốc năng lượng và phát triển tại Viện Breakthrough Institute, nói rằng Đức và châu Âu nên hướng tới châu Phi, nếu họ nghiêm túc về việc đạt được an ninh năng lượng. Ramachandran lưu ý rằng lục địa này được ưu đãi với trữ lượng khí đốt tự nhiên đáng kể và những phát hiện mới trong quá trình khai thác. Rất ít khí đốt của Châu Phi đã được khai thác để tiêu thụ trong nước hay xuất khẩu.
Algeria đã là một nhà sản xuất khí đốt lớn với trữ lượng đáng kể chưa được khai thác và kết nối với Tây Ban Nha bằng một số đường ống dẫn dưới biển. Đức và EU đang nỗ lực mở rộng công suất đường ống nối Tây Ban Nha với Pháp, từ đó nhiều khí đốt của Algeria có thể chảy sang Đức và những nơi khác. Các mỏ khí đốt của Libya được kết nối bằng đường ống dẫn tới Ý. Ở cả Algeria và Libya, châu Âu cần khẩn trương giúp khai thác các mỏ mới và tăng sản lượng khí đốt. Các đường ống mới đang được thảo luận hiện tập trung vào Dự án Đường ống Đông Địa Trung Hải, dự án sẽ đưa khí đốt từ các mỏ khí đốt ngoài khơi của Israel đến châu Âu.
Nhưng các nguồn khí đốt châu Phi lớn nhất nằm ở phía nam Sahara - bao gồm Nigeria, quốc gia nắm giữ khoảng một phần ba trữ lượng của lục địa và Tanzania. Senegal gần đây đã phát hiện ra các mỏ lớn ngoài khơi.
Ramachandra cho rằng châu Âu không nên bỏ qua những cơ hội này. Ví dụ, đường ống xuyên Sahara được đề xuất sẽ đưa khí đốt từ Nigeria đến Algeria qua Niger. Nếu dự án hoàn thành, đường ống mới sẽ kết nối với các đường ống Xuyên Địa Trung Hải, Maghreb-Europe, Medgaz và Galsi hiện cung cấp cho Châu Âu từ các trung tâm truyền tải trên bờ biển Địa Trung Hải thuộc Algeria. Đường ống xuyên Sahara sẽ dài hơn 2.500 dặm và có thể cung cấp tới 30 tỷ mét khối khí đốt Nigeria cho châu Âu mỗi năm - tương đương với khoảng 2/3 lượng nhập khẩu năm 2021 của Đức từ Nga (Đường ống Yamal-châu Âu, một trong những tuyến đường chính dẫn khí đốt của Nga đến châu Âu, dài 2.607 dặm). Về phần mình, Nigeria rất hào hứng với việc xuất khẩu một lượng khí trong số 200 nghìn tỷ foot khối dự trữ của mình, khi Phó Tổng thống Nigeria Yemi Osinbajo ủng hộ vai trò quan trọng của khí tự nhiên, vừa là nhiên liệu chuyển đổi tương đối sạch vừa là động lực cho phát triển kinh tế và thu nhập ngoại hối.
Thật không may, đường ống xuyên Sahara có thể sẽ mất một thập kỷ hoặc lâu hơn để hoàn thành và, các chuyến hàng LNG đến châu Âu sẽ mang lại sự cứu trợ nhanh hơn.
Thật không may, nhà nhập khẩu khí đốt lớn nhất của châu Âu, Đức, đã không xây dựng một cảng nhập khẩu LNG nào trong chính sách của nước này nhằm khiến Đức phụ thuộc vào khí đốt của Nga và do đó khiến Nga phụ thuộc nhiều hơn vào nước này. Nhưng vẫn có hy vọng: Berlin đã từ bỏ cách làm cũ và cho biết bây giờ họ sẽ xây dựng cơ sở hạ tầng LNG.
May mắn cho Đức và các quốc gia EU đang mắc kẹt khác, Ramachandran nói rằng các cảng bốc dỡ LNG có thể được xây dựng một cách hợp lý nhanh chóng ở châu Phi, với mỏ Greater Tortue Ahmeyin, một mỏ khí đốt ngoài khơi nằm giữa biên giới biển giữa Senegal và Mauritania, một ví dụ điển hình. Khi mỏ này được đưa vào khai thác vào năm tới, nó sẽ đưa hai quốc gia Tây Phi vào danh sách các nhà sản xuất khí đốt hàng đầu của châu lục. Các nhà máy hóa lỏng nổi nằm phía trên mỏ khí ngoài khơi dùng để sản xuất, hóa lỏng, lưu trữ và chuyển khí đến các tàu chở LNG, sau đó vận chuyển thẳng đến các nước nhập khẩu. Mặc dù sản lượng ban đầu từ mỏ này sẽ nhỏ, nhưng dự kiến sẽ tăng gấp đôi trong một vài năm và mỏ này nằm trong một lưu vực khí đốt tự nhiên lớn hơn với trữ lượng nhiều hơn đáng kể.
Ở những nơi khác ở châu Phi, sản xuất khí đốt cũng sẽ tiếp tục mở rộng khi các dự án ở Tanzania, Mozambique và các quốc gia khác đi vào hoạt động trong vài năm tới.
Việc phát triển một đường ống dẫn khí đốt lớn như đường ống xuyên Sahara có thể sẽ đặt ra nhiều thách thức vì nó chạy qua các khu vực bị xung đột và nổi dậy. Nhưng những dự án kiểu này có thể xoa dịu cuộc khủng hoảng năng lượng của Châu Âu đồng thời giúp Châu Phi phát triển và hội nhập kinh tế.
Nguồn tin: xangdau.net