Hủy bỏ dự án, cắt giảm chi tiêu, đóng cửa giếng: các vấn đề và tình huống khó xử gây khó khăn cho các nhà sản xuất dầu trên bờ cũng đã lan ra ngoài khơi. Và trong khi ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đối với hoạt động khoan trên bờ có lẽ đang phai nhạt dần thì chúng có thể đeo đẳng lâu hơn đối với hoạt động khoan ngoài khơi.
Mặc dù các công ty dầu mỏ có những tiến bộ lớn về mặt chi phí, nhưng việc khoan ngoài khơi thường vẫn đắt đỏ hơn so với khoan trên bờ, nhất là do quá trình khai thác phức tạp hơn. Đây là những chi phí mà người ta không thể cắt giảm hoặc bỏ qua. Điều này có nghĩa là trong môi trường hiện tại, dầu ngoài khơi có thể bị ảnh hưởng nhiều hơn dầu trên bờ.
Ở Biển Bắc, gần một phần ba lượng dầu còn lại trên thềm lục địa Anh không còn kinh tế để khai thác, một nghiên cứu gần đây cho thấy. Theo đó, với dầu thô Brent ở mức 45 USD/thùng, 28% lượng dầu là không có lời để khai thác. Nhưng Brent đã không giao dịch ở mức 45 đô la một thùng trong nhiều tháng và thậm chí khó có thể đạt được mốc 40 đô la một thùng vào cuối năm nay nếu chúng ta tin các nhà phân tích. Điều này có nghĩa là nhiều dầu hơn sẽ trở nên không kinh tế, và không chỉ ở Biển Bắc.
Trong khu vực vùng Vịnh Mexico của Mỹ, Baker Hughes đã báo cáo số lượng giàn khoan chỉ có 12 trong báo cáo số lượng giàn khoan hàng tuần mới nhất. Con số này giảm xuống từ 22 trong tháng Ba và 19 hồi tháng Tư. Scott Carpenter của Forbes lưu ý đây là số lượng giàn khoan hàng tuần thấp nhất trong mười năm. Và có khả năng số lượng giàn khoan sẽ tiếp tục giảm nếu giá vẫn ở mức hiện nay. Trong khi đó, giàn khoan sản xuất cũng đang ngừng hoạt động.
Khi các công ty khoan đá phiến bắt đầu tạm ngừng sản xuất vì giá hòa vốn của họ cao hơn chi phí sản xuất một thùng dầu ở hầu hết các lưu vực đá phiến ở Mỹ, có một số lo ngại về việc sản xuất đó có thể bị mất mãi mãi. Điều tương tự cũng đúng với sản xuất ngoài khơi. Tạp chí Phố Wall báo cáo vào tháng trước rằng các nhà sản xuất ở vùng Vịnh đang ngừng sản xuất và nhiều người lo ngại phải mất nhiều năm trước khi sản xuất này trở lại. Những gì đang xảy ra ở Vịnh Mexico cũng đang xảy ra ở nơi khác, khi các nhà sản xuất bị áp lực bởi nhu cầu tê liệt.
“Tôi cảm thấy như mình đã xử lý khá tốt hoạt động năm 2020 cách đây ba tuần, nhưng tôi chỉ không biết ngay bây giờ”, một giám đốc điều hành nói với WorkBoat vào giữa tháng Ba. “Những gì tôi có thể nói với bạn là dựa trên những gì chúng ta đã thấy trong suốt năm 2019, và thậm chí vào đầu năm nay, hoạt động đang gia tăng ở vùng nước sâu”, phó chủ tịch điều hành của Jackson Offshore Operations cho biết.
Sự thật là, không ai biết điều này sẽ xảy ra. Ngành dầu mỏ đã bị bất ngờ bởi cả cuộc chiến giá và đại dịch, và nó vẫn đang quay cuồng vì đòn giáng này. Trong phân khúc ngoài khơi, dường như có ba thách thức chính, theo Rystad Energy: sự sụt giảm mạnh các dịch vụ và thiết bị khai thác dầu ngoài khơi, lỗ hổng tài chính và công suất quá mức, Jessica Stump của Offshore Magazine đưa tin tháng trước.
Những điều này không phải là khó khăn duy nhất đối với hoạt động khoan ngoài khơi nhưng chúng có thể mang lại hậu quả nghiêm trọng hơn: các dự án ngoài khơi mất nhiều thời gian hơn để có được sự phê duyệt khởi động, điều đó có nghĩa là việc trì hoãn và hủy bỏ dự án hiện tại có thể làm chậm sự tăng trưởng sản xuất ngoài khơi trong nhiều năm, nếu không phải là vĩnh viễn.
Sau đó là những vụ phá sản. Theo Rystad Energy, đại dịch Covid-19 có thể dẫn đến việc giảm 5 tỷ đô la trong hoạt động mua dịch vụ mỏ dầu ở châu Âu, một lục địa khai thác gần như toàn bộ dầu mỏ ngoài khơi, điều đó có nghĩa là 1/5 nhà cung cấp các dịch vụ này có thể phá sản. Và châu Âu không phải là nơi duy nhất mà dầu ngoài khơi chiếm phần lớn hoặc toàn bộ sản lượng dầu.
Nhiều khu vực biên giới, đặc biệt là ở Châu Phi và Nam Mỹ, sẽ gánh chịu sự đình trệ vì khủng hoảng, theo ước tính của IHS Markit, cuộc khủng hoảng có thể quét sạch 14% nhu cầu dầu trong quý này. Mức này tương đương khoảng 14 triệu bpd, căn cứ theo nhu cầu dầu năm 2019 với khoảng 100 triệu bpd. Những hãng khác thì bi quan hơn. BP dự kiến nhu cầu sẽ giảm trong quý thứ hai là 16 triệu bpd. Rystad ước tính tổn thất nhu cầu lên tới 27 triệu bpd chỉ riêng trong tháng 4 và Trafigura dự báo mức giảm nhu cầu tháng 4 ở mức 35 triệu bpd.
Dầu ngoài khơi chiếm gần một phần ba tổng số toàn cầu. Nó có xu hướng tốn kém hơn để khai thác so với dầu trên bờ, nhưng có tuổi thọ dài hơn so với dầu trên bờ. Toàn bộ phân khúc dịch vụ mỏ dầu được tập trung hoàn toàn vào hoạt động khoan và sản xuất ngoài khơi. Nhiều công ty trong phân khúc đó có thể không sống sót qua khủng hoảng.
Và sau đó là những tác động kinh tế rộng hơn của cuộc khủng hoảng dầu khí ngoài khơi. Đối với các khu vực như Brazil và Vịnh Guinea, sự chậm trễ và hủy bỏ trong các dự án ngoài khơi, khiến chúng đột nhiên trở nên quá đắt đỏ để khai thác, nghĩa là gặp vấn đề kinh tế chưa kể doanh thu dầu thấp do giá quốc tế.
Lần trước, dầu ngoài khơi vẫn sống sót sau cuộc khủng hoảng, tiết kiệm chi phí hơn và với mức giá hòa vốn thấp hơn, ít nhất là trong số các ông lớn. Chúng ta vẫn chưa biết ngành công nghiệp này sẽ xuất hiện như thế nào từ sau cuộc khủng hoảng này.
Nguồn tin: xangdau.net