Dầu khí là lĩnh vực hoạt động đầy thử thách cam go và nhiều rủi ro, là lĩnh vực mang lại hiệu quả cao nhưng đồng thời cũng phải đầu tư rất lớn. Vấn đề toàn cầu hóa nền tảng khai thác và kinh doanh dầu khí đã trở thành xu thế chung, nếu không có hợp tác quốc tế thì không thể phát triển ngành đặc biệt này.
Thực tế đã chứng minh, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều mời gọi đầu tư quốc tế vào hoạt động dầu khí nhằm chia sẻ rủi ro, từ khâu thượng nguồn (tìm kiếm, thăm dò, khai thác) đến hạ nguồn (chế biến dầu khí). Hơn 30 năm qua, kể từ thời điểm Việt Nam ghi tên mình vào bản đồ dầu khí thế giới khi có tấn dầu đầu tiên từ Bạch Hổ, chúng ta đã tham gia vào thị trường, đã có chỗ đứng của mình, có khách hàng, đối tác và hàng trăm mối quan hệ ràng buộc về tài chính, bảo hiểm, dịch vụ... Giống như các công ty dầu khí trên thế giới nói chung, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) phải hoạt động theo luật pháp quốc tế với các nguyên tắc minh bạch, tự do hóa đầy đủ thị trường.
Hiện nay, chúng ta có một khối tài sản rất lớn trong hoạt động dầu khí ở Biển Đông, những tài sản đó buộc phải được giữ gìn, duy trì hoạt động để bảo đảm cân bằng kinh tế cũng như an ninh năng lượng . Chúng ta phải tiếp tục đầu tư tìm kiếm thăm dò, gia tăng trữ lượng dầu khí cho tương lai; đồng thời, hoạt động dầu khí còn một ý nghĩa lớn lao là khẳng định vùng biển chủ quyền, bảo vệ an ninh trên biển.
Những hoạt động mà hiện nay Petrovietnam đang đầu tư phải cạnh tranh khốc liệt với các công ty dầu khí quốc tế, thậm chí có những dự án mà nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam phải bỏ cuộc Petrovietnam vẫn làm và làm thành công. Thực tế là không doanh nghiệp tư nhân nào trong nước đủ lực thể tham gia bởi lẽ đây là ngành chứa đựng rất nhiều rủi ro, chỉ một giếng khoan không tìm thấy dầu là mất đi hàng chục, thậm chí cả hàng trăm triệu đô la.
Mô phỏng mỏ dầu khí trên thềm lục địa và các giếng khoan
Bài viết đề cập đến những thách thức lớn của ngành dầu khí khi luôn phải đối diện với các rủi ro như địa chính trị, an toàn môi trường, biến động về thị trường, công nghệ… Rủi ro không chỉ khiến doanh nghiệp khốn đốn mà còn có thể dẫn đến sự đổ vỡ, phá sản.
Rủi ro hàng đầu thường liên quan đến yếu tố địa chính trị. Đa số các công ty dầu khí lớn thường là các công ty dầu khí quốc gia hoặc đa quốc gia, được sở hữu toàn phần hoặc một phần của nhà nước. Vì vậy môi trường pháp lý, các chiến lược, những quy định quản lý, các chính sách, đặc biệt là chính sách về năng lượng, kinh tế, ngoại giao của các quốc gia đều có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong ngành dầu khí. Sự bất ổn về chính trị ở các quốc gia hoặc xung đột nội bộ, cấm vận, chiến tranh đều tác động mạnh đến công nghiệp dầu khí, ví dụ như ở Venezuela, Iraq, một số nước Trung Đông, châu Phi…
Thông thường, một công ty dầu khí bị tác động bởi một loạt những quy định giới hạn về địa điểm, thời gian và phương thức tiến hành khai thác. Các luật lệ và quy định này cũng có thể khác nhau tùy từng khu vực. Điều đó cho thấy rủi ro chính trị nói chung sẽ tăng lên khi các công ty dầu khí khai thác các mỏ ở nước ngoài. Cũng có một số quốc gia điều chỉnh luật sở hữu nước ngoài để đảm bảo lợi ích của các công ty trong nước.
Ví dụ, hiện nay Venezuela đang trong tình trạng rối ren, bất ổn và các biện pháp trừng phạt, cấm vận của Mỹ, châu Âu, Canada, … đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động của nhiều công ty dầu khí từ Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Italia, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ và cả Việt Nam (Rosneft, CNPC, CNOOC, Repsol, ONGC, EnI, Chevron, Petrovietnam). Một số công ty đã phải dừng dự án, một số chỉ còn hoạt động cầm chừng.
Nguồn tin: petrotimes.vn