Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Chi phí sản xuất dầu tăng vọt, nhưng các dự án đá phiến vẫn có lãi

Chi phí khai thác các dự án dầu thượng nguồn mới tiếp tục tăng khi áp lực lạm phát và khó khăn về chuỗi cung ứng vẫn tiếp diễn. Nghiên cứu mới từ Rystad Energy cho thấy chi phí hòa vốn trung bình của một dự án dầu không thuộc OPEC đã tăng lên 47 đô la một thùng dầu thô Brent, cao hơn 5% chỉ trong năm ngoái. Mặc dù chi phí tăng, nhưng mức hòa vốn vẫn thấp hơn giá dầu hiện tại.

Các dự án dầu nước sâu và dầu nhẹ ngoài khơi vẫn là nguồn cung mới tiết kiệm nhất, trong khi cát dầu vẫn là nguồn đắt nhất. Bằng cách phân tích chi phí hòa vốn, chúng ta có thể ước tính lượng dầu thô sẽ được cung cấp trong tương lai dựa trên khả năng kinh tế của các nguồn cung khác nhau. Nghiên cứu mới cho thấy rằng mặc dù chi phí tăng, nguồn cung có khả năng sẽ tăng vào năm 2030, chủ yếu do sản lượng từ các nước OPEC, nơi chi phí thấp và tiềm năng tài nguyên cao. Giá dầu cân bằng mới cho nhu cầu 105 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2030 là khoảng 55 đô la một thùng.

Nghiên cứu bao gồm phân tích chi tiết chi phí cung toàn cầu cho lượng tài nguyên còn lại, được chia thành các mỏ đang khai thác và chưa khai thác. Các mỏ chưa khai thác được chia thành các nhóm phân khúc cung ứng khác nhau. Báo cáo phát hiện ra rằng Trung Đông trên đất liền là nguồn sản xuất mới rẻ nhất, với giá hòa vốn trung bình chỉ 27 đô la một thùng. Phân khúc này cũng tự hào có một trong những tiềm năng tài nguyên quan trọng nhất. Thềm lục địa là nguồn rẻ thứ hai (37 đô la một thùng), tiếp theo là nước sâu ngoài khơi (43 đô la) và đá phiến Bắc Mỹ (45 đô la). Ngược lại, giá hòa vốn sản xuất cát dầu trung bình là 57 đô la một thùng, nhưng có thể lên tới khoảng 75 đô la.

Giá hòa vốn tăng phản ánh áp lực chi phí ngày càng tăng đối với ngành thượng nguồn. Điều này thách thức tính khả thi về mặt kinh tế của một số dự án mới, nhưng một số phân khúc nhất định, bao gồm dầu ngoài khơi và dầu nhẹ, vẫn tiếp tục cung cấp chi phí cạnh tranh, đảm bảo nguồn cung vẫn có thể được đưa vào hoạt động để đáp ứng nhu cầu trong tương lai. Việc quản lý những khoản tăng chi phí này sẽ rất quan trọng để duy trì tăng trưởng sản xuất dài hạn.

Từ năm 2014 đến năm 2020, dầu nhẹ và OPEC là những người hưởng lợi rõ ràng, vì cả hai phân khúc đều chứng kiến ​​mức giá hòa vốn giảm và khối lượng tiềm năng tăng. Kể từ năm 2020, nguồn cung tiềm năng từ dầu nhẹ đã giảm và hiện chúng tôi kỳ vọng dầu nhẹ sẽ sản xuất khoảng 22 triệu thùng/ngày vào năm 2030, bao gồm khí tự nhiên lỏng (NGL). Việc giảm nguồn cung dầu nhẹ trong tương lai là do thay đổi chiến lược của công ty, với nhiều tiền mặt hơn được chi trả cho các nhà đầu tư và trong bối cảnh hợp nhất ngành.

Từ năm 2014 đến năm 2020, các lĩnh vực thềm lục địa và nước sâu ngoài khơi đã giảm chi phí khoảng 35%. Tuy nhiên, việc thiếu hoạt động trừng phạt mới trong giai đoạn này đã làm giảm nguồn cung chất lỏng ngoài khơi tiềm năng năm 2030. So với năm 2022, giá hòa vốn cho các phân khúc thềm lục địa và nước sâu đang tăng do giá đơn vị cao hơn. Tuy nhiên, cát dầu tiếp tục giảm chủ yếu do chi phí vận hành thấp hơn được quan sát thấy đối với phân khúc dầu nặng này.

Ngoài giá hòa vốn, thời gian hoàn vốn trung bình cho các dự án mới, tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR) và cường độ carbon dioxide (CO2) là những số liệu quan trọng để đánh giá nền kinh tế phát triển dầu mới. Thời gian hoàn vốn của ngành dầu khí nhẹ chỉ là hai năm, giả sử giá dầu trung bình là 70 đô la một thùng, minh họa cho tốc độ thu hồi vốn đầu tư của các nhà khai thác. Thời gian hoàn vốn gần 10 năm hoặc hơn đối với các phân khúc nguồn cung khác. Dầu khí nhẹ cũng dẫn đầu về IRR, với IRR ước tính khoảng 35% trong cùng một kịch bản giá dầu trung bình. Ngược lại, cát dầu, nguồn cung đắt đỏ nhất, có IRR thấp nhất là khoảng 12%.

Trong ba năm qua, cường độ CO2 trung bình đối với dầu khí nhẹ là 14 kg mỗi thùng dầu tương đương (kg mỗi thùng dầu quy đổi), trong khi dầu nước sâu có cường độ CO2 trung bình cao hơn một chút là 15 kg mỗi thùng dầu quy đổi. Ngành cát dầu một lần nữa tụt hậu so với các phân khúc khác, với lượng khí thải ước tính cao nhất trong tương lai vào khoảng 70 kg mỗi thùng dầu quy đổi.

Nguồn tin: xangdau.net/Rystad Energy

ĐỌC THÊM