Sau một giai đoạn ảm đạm chứng kiến thị trường dầu ghi nhận tháng sụt giảm tồi tệ nhất trong năm nay, thị trường đã bước vào tháng 9 với một triển vọng tươi sáng hơn.
Cả dầu thô WTI và Brent đều ở mức trên 70 USD/thùng lần đầu tiên trong nhiều tuần sau khi OPEC + đồng ý giữ nguyên thỏa thuận sản xuất hiện tại, duy trì mức tăng 400 ngàn thùng/ngày như kế hoạch cho tháng 10. Nhóm đã mất chưa đầy một giờ để đưa ra thông báo lần này, trái ngược hoàn toàn với các cuộc đàm phán kéo dài tại những cuộc họp trước đó. Vào cuối ngày thứ Sáu, WTI dù đã xuống dưới 70 USD, nhưng các chất xúc tác vẫn còn để đưa giá tăng trở lại.
Thị trường coi điều này như tín hiệu rằng thị trường dầu mỏ toàn cầu đang ở trong tình trạng tốt hơn so với lo ngại trước đó, khi biến thể Delta gây ra tình trạng phong tỏa trên diện rộng và lo ngại về một đợt suy thoái nữa.
Nhưng đó chỉ là một trong số những diễn biến tích cực đã khiến thị trường dầu trở nên tăng giá. Dưới đây là những chất xúc tác tăng giá khác mà sẽ tác động tích cực đến thị trường dầu trong vài tháng tới.
# 1 Doanh thu kỷ lục
Tháng trước, công ty tư vấn năng lượng Na Uy Rystad Energy báo cáo rằng ngành công nghiệp đá phiến Mỹ đang trên đà thiết lập một cột mốc quan trọng vào năm 2021: Doanh thu pre-hedge kỷ lục.
Theo Rystad, các hãng khai thác đá phiến của Mỹ có thể kỳ vọng doanh thu hydrocacbon cao kỷ lục là 195 tỷ USD trước khi tính đến bảo hiểm rủi ro vào năm 2021 nếu hợp đồng WTI tương lai tiếp tục hoạt động mạnh mẽ và trung bình ở mức 60 USD/thùng trong năm nay và giá khí tự nhiên và NGL vẫn ổn định. Kỷ lục trước đây về doanh thu pre-hedge là 191 tỷ đô la được thiết lập vào năm 2019.
Ước tính này bao gồm doanh số bán hydrocacbon từ tất cả các giếng khoan ngang dầu nhẹ ở Permian, Bakken, Anadarko, Eagle Ford và Niobrara.
Điều đó nói rằng, Rystad cho thấy dòng tiền của công ty từ hoạt động có thể không đạt kỷ lục trước năm 2022 do lỗ bảo hiểm rủi ro lên tới 10 tỷ đô la doanh thu trong năm hiện tại.
Điều đáng mừng là các khoản lỗ do bảo hiểm rủi ro có thể không cao như vậy trong năm tới vì các công ty không mặn mà với việc sử dụng chúng.
Các công ty đá phiến thường tăng sản lượng và bổ sung bảo hiểm rủi ro khi giá dầu tăng, nhằm nỗ lực khóa mức lợi nhuận lời. Tuy nhiên, sự phục hồi điên cuồng sau đại dịch đã khiến nhiều người tự hỏi liệu điều này có thể thực sự kéo dài hay không và khiến nhiều công ty rút lui khỏi việc phòng ngừa rủi ro. Thật vậy, 53 công ty khai thác dầu được Wood Mackenzie theo dõi mới chỉ bảo hiểm 32% sản lượng dự kiến năm 2021, ít hơn đáng kể so với cùng thời điểm một năm trước.
Goldman chắc chắn thiên về xu hướng tăng giá và dự báo giá dầu ở mức 75-80 USD/thùng trong 18 tháng tới. Mức giá đó sẽ giúp các công ty giảm bớt nợ và cải thiện lợi nhuận của họ. Goldman đã đề xuất Occidental (NYSE: OXY), ExxonMobil (NYSE: XOM), Devon (NYSE: DVN), Hess (NYSE: HES) và Schlumberger (NYSE: SLB), trong số những người khác.
Goldman không phải là tổ chức lạc quan duy nhất về dầu ở Phố Wall.
Vào đầu tháng 6, John Kilduff của Again Capital dự đoán rằng dầu Brent sẽ đạt 80 đô la/thùng vào mùa hè và WTI sẽ giao dịch trong khoảng 75 đến 80 đô la, nhờ nhu cầu xăng tăng mạnh.
# 2 Sự phục hồi nhu cầu ở Trung Quốc
Nhu cầu dầu thô ở Trung Quốc đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ sau khi nước này mở cửa trở lại nền kinh tế, và Bắc Kinh tiến gần hơn đến việc hoàn tất than tra các nhà máy lọc dầu độc lập, do đó cho phép các teapot tiếp tục nhập khẩu dầu thô.
Sau gần 5 tháng thu mua chậm hơn do thiếu hạn ngạch nhập khẩu, phong tỏa liên quan đến COVID-19 làm giảm tiêu thụ nhiên liệu và xả bớt tồn kho cao, nhu cầu đối với dầu thô giao ngay của nhà nhập khẩu hàng hóa lớn nhất thế giới này hiện đang trên đà phục hồi.
Kể từ tháng 4, tiêu thụ yếu ở Trung Quốc cũng như sản lượng lọc dầu của Trung Quốc giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong 14 tháng đã khiến giá các loại dầu thô chủ lực từ Tây Phi và Brazil xuống mức thấp nhất trong nhiều tháng.
Nhưng các nhà phân tích cho biết các nhà nhập khẩu dầu thô Trung Quốc đang tăng cường mua và thậm chí trả phí bảo hiểm cao hơn để đảm bảo nguồn cung từ tháng 11 trở đi nhờ các hạn chế về phong tỏa được nới lỏng.
Khoảng một tháng trước, các nhà chức trách ở Bắc Kinh đã tái áp đặt các đợt phong tỏa lớn bằng cách cắt giảm các dịch vụ vận tải công cộng và taxi tại 144 trong số các khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến thể Delta trên toàn quốc, trong đó có dịch vụ xe lửa và sử dụng tàu điện ngầm ở Bắc Kinh. Việc phong tỏa này rõ ràng đã phát huy tác dụng và gần đây Bắc Kinh tuyên bố rằng họ đã đưa tỷ lệ nhiễm biến thể Delta xuống bằng 0.
Trong khi đó, các nhà giao dịch ngày càng lạc quan rằng Bắc Kinh sẽ sớm kết thúc một cuộc điều tra về các nhà máy lọc dầu độc lập, hay còn gọi là teapot. Các nhà máy lọc dầu tư nhân hiện kiểm soát gần 30% khối lượng lọc dầu thô của Trung Quốc, tăng từ ~ 10% vào năm 2013.
Bắc Kinh gần đây đã công bố cắt giảm hạn ngạch nhập khẩu lớn đối với các nhà máy lọc dầu tư nhân của nước này. Theo Reuters, các nhà máy lọc dầu độc lập của Trung Quốc đã được cấp tổng cộng 35,24 triệu tấn hạn ngạch nhập khẩu dầu thô trong đợt hạn ngạch thứ hai năm nay, giảm 35% so với mức 53,88 triệu tấn của đợt tương tự cách đây một năm.
Việc cắt giảm lớn này diễn ra như một phần trong việc siết chặt của chính phủ đối với các nhà máy lọc dầu tư nhân, vốn ngày càng chiếm ưu thế trong 5 năm qua. Điều này nhằm cho phép Bắc Kinh điều tiết chính xác hơn dòng chảy của dầu nước ngoài khi nước này nỗ lực trấn áp các hành vi sai trái như trốn thuế, buôn lậu nhiên liệu và vi phạm các quy tắc về môi trường và khí thải của các nhà máy lọc dầu độc lập. Nhưng Bắc Kinh hiện đã gần với hoàn tất nhiệm vụ này và có thể cho phép nhiều teapot bắt đầu nhập khẩu dầu thô trở lại.
Quả thật, đợt hạn ngạch thứ tư dự kiến sẽ được công bố vào tháng 9 hoặc tháng 10, có thể phục hồi nhu cầu từ các nhà máy lọc dầu độc lập.
Một điều nữa có lợi cho các teapot đó là, trữ lượng dầu thô của các công ty dầu khí quốc gia đang ở mức rất thấp, và các nhà máy lọc dầu tư nhân có thể giúp thu hẹp sự thiếu hụt này. Nhập khẩu vào tỉnh Sơn Đông của Trung Quốc, nơi tọa lạc hầu hết các teapot, đã giảm xuống dưới 3 triệu thùng trong cả tháng 7 và tháng 8, so với mức trung bình khoảng 3,6 triệu thùng trong nửa đầu năm 2021.
# 3 Khủng hoảng nguồn cung
Francisco Blanch- Chiến lược gia hàng hóa của Ngân hàng Bank of America- đã dự báo giá dầu sẽ đạt 100 USD/thùng vào năm 2022 khi thế giới bắt đầu đối mặt với cuộc khủng hoảng nguồn cung lớn:
"Thứ nhất, có rất nhiều nhu cầu đi lại bị dồn nén sau 18 tháng phong tỏa. Thứ hai, phương tiện giao thông công cộng sẽ tụt hậu, thúc đẩy việc sử dụng ô tô cá nhân trong một thời gian dài. Thứ ba, các nghiên cứu trước đại dịch cho thấy làm việc từ xa nhiều hơn có thể dẫn đến lái xe nhiều dặm hơn, khi làm việc ở nhà chuyển thành làm việc trong xe ô tô. Về phía nguồn cung, chúng tôi kỳ vọng áp lực chính sách của chính phủ tại Mỹ và trên toàn thế giới sẽ hạn chế vốn đầu tư trong các quý tới để đáp ứng các mục tiêu của thỏa thuận Paris.
Thứ hai, các nhà đầu tư đã lên tiếng phản đối nhiều hơn đối với chi tiêu của ngành năng lượng vì cả lý do tài chính và tiêu chuẩn Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG). Thứ ba, sức ép luật pháp đang gia tăng để hạn chế lượng khí thải carbon dioxide. Nói tóm lại, nhu cầu đã sẵn sàng phục hồi nhưng nguồn cung không thể theo kịp được hoàn toàn, đặt OPEC vào vị thế kiểm soát thị trường dầu mỏ năm 2022”, Blanch giải thích.
Dự đoán tăng giá của Blanch cho đến nay là táo bạo nhất trong số các ngân hàng chính thống ở Phố Wall và nó hợp lý ngay cả trong một khung thời gian dài hơn.
Mặc dù ít được thảo luận nghiêm túc hơn so với Nhu cầu dầu đạt đỉnh, thì Nguồn cung dầu đạt đỉnh vẫn là một khả năng rõ rệt trong vài năm tới.
Trong quá khứ, các lý thuyết về "đỉnh dầu" từ phía nguồn cung hầu hết đều sai, chủ yếu là do những người ủng hộ chúng luôn đánh giá thấp sự khổng lồ của các nguồn tài nguyên chưa được khám phá. Trong những năm gần đây, lý thuyết " đỉnh dầu " từ phía cầu luôn đánh giá quá cao khả năng của các nguồn năng lượng tái tạo và xe điện trong việc thay thế nhiên liệu hóa thạch.
Tất nhiên, ít ai có thể nói trước được sự tăng trưởng bùng nổ của đá phiến Mỹ, làm bổ sung thêm 13 triệu thùng mỗi ngày vào nguồn cung toàn cầu từ chỉ 1-2 triệu thùng/ngày trong thời gian chỉ một thập kỷ.
Thật trớ trêu khi cuộc khủng hoảng đá phiến có khả năng là nguyên nhân kích hoạt Nguồn cung dầu đạt đỉnh.
Trong một bài viết xuất sắc, phó chủ tịch IHS Markit Dan Yergin nhận xét rằng gần như không thể tránh khỏi sản lượng đá phiến sẽ đi ngược lại và sụt giảm do đầu tư bị cắt giảm mạnh và chỉ phục hồi sau đó với tốc độ chậm. Các giếng dầu đá phiến suy giảm với tốc độ cực nhanh và do đó cần phải khoan liên tục để bổ sung nguồn cung bị mất.
Thật vậy, công ty tư vấn năng lượng Rystad Energy có trụ sở tại Na Uy gần đây đã cảnh báo rằng Big Oil có thể chứng kiến trữ lượng đã được xác minh của họ cạn kiệt trong vòng chưa đầy 15 năm nữa, do khối lượng được khai thác không được thay thế hoàn toàn bằng những phát hiện mới.
Theo Rystad, trữ lượng dầu và khí đốt đã được xác minh bởi những công ty được gọi là Big Oil, cụ thể là ExxonMobil, BP Plc. (NYSE: BP), Shell (NYSE: RDS.A), Chevron (NYSE: CVX), Total (NYSE: TOT), và Eni SpA (NYSE: E) đều giảm do khối lượng sản xuất không được thay thế hoàn toàn bằng phát hiện mới.
Chỉ tính riêng năm ngoái, các khoản phí tổn thất lớn đã chứng kiến trữ lượng đã được xác minh của Big Oil giảm 13 tỷ thùng dầu tương đương, tức là ~ 15% mức tồn kho của các công ty này trong năm ngoái. Rystad hiện nói rằng trữ lượng còn lại dự kiến sẽ cạn kiệt trong vòng chưa đầy 15 năm nữa trừ khi Big Oil nhanh chóng có nhiều phát hiện thương mại hơn.
Thủ phạm chính: Các khoản đầu tư thăm dò bị thu hẹp nhanh chóng.
Các công ty dầu khí toàn cầu đã cắt giảm đáng kinh ngạc 34% vốn đầu tư vào năm 2020 để thích ứng với nhu cầu ngày càng giảm và các nhà đầu tư ngày càng mệt mỏi với lợi nhuận kém liên tục của lĩnh vực này.
Xu hướng này không có dấu hiệu giảm bớt: Những phát hiện trong quý đầu tiên đạt tổng cộng 1,2 tỷ thùng dầu thương đương, thấp nhất trong 7 năm với những giếng được tìm kiếm thành công chỉ mang lại những phát hiện có quy mô khiêm tốn theo Rystad.
ExxonMobil, có trữ lượng đã được xác minh giảm 7 tỷ thùng dầu thương đương vào năm 2020, tương đương 30%, so với mức năm 2019, bị ảnh hưởng nặng nề nhất sau sự sụt giảm lớn về cát dầu của Canada và khí đá phiến của Mỹ.
Trong khi đó, Shell đã chứng kiến trữ lượng đã được xác minh của mình giảm 20% xuống còn 9 tỷ thùng dầu thương đương vào năm ngoái; Chevron mất 2 tỷ thùng dầu thương đương dự trữ đã được xác minh do phí tổn thất trong khi BP mất 1 thùng dầu thương đương. Chỉ Total và Eni tránh được sự sụt giảm trữ lượng đã được xác minh trong thập kỷ qua.
Tuy nhiên, những thay đổi về chính sách của chính quyền Biden, cũng như hoạt động khí hậu gây sốt, có khả năng khiến Big Oil thực sự khó quay trở lại những ngày khoan vui vẻ, có nghĩa là đá phiến của Mỹ có thể thực sự chật vật để trở lại thời kỳ huy hoàng của nó.
Nguồn tin: xangdau.net